
SÁNG THẾ KÝ 25-26: DÒNG DÕI Y SÁC VÀ RÊ BE CA ( Ê SAU VÀ GIA CỐP)
Sáng-thế Ký 25
Áp-ra-ham cưới nàng Kê-tu-ra
1Áp-ra-ham cưới một người vợ khác, tên là Kê-tu-ra. 2Người sanh cho Áp-ra-ham Xim-ram, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách. 3Giốc-chan sanh Sê-ba và Đê-đan; con cháu của Đê-đan là họ A-chu-rim, họ Lê-tu-chim và họ Lê-um-mim. 4Con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa. Các người trên đây đều là dòng-dõi của Kê-tu-ra.
5Áp-ra-ham cho Y-sác hết thảy gia-tài mình; còn cho các con dòng thứ những tiền-của; 6rồi, khi còn sống, người sai họ qua đông-phương mà ở, cách xa con dòng chánh, là Y-sác.
Áp-ra-ham qua đời
7Áp-ra-ham hưởng-thọ được một trăm bảy mươi lăm tuổi; 8người tuổi cao tác lớn và đã thỏa về đời mình, tắt hơi, được qui về nơi tổ-tông. 9Hai con trai người, Y-sác và Ích-ma-ên, chôn người trong hang đá Mặc-bê-la tại nơi đồng của Ép-rôn, con trai Sô-ha, người Hê-tít, nằm ngang Mam-rê. 10Ấy là cái đồng mà lúc trước Áp-ra-ham mua lại của dân họ Hếch; nơi đó họ chôn Áp-ra-ham cùng Sa-ra, vợ người.
11Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Đức Giê-hô-va ban phước cho Y-sác con trai người. Y-sác ở gần bên cái giếng La-chai-Roi.
Dòng-dõi của Ích-ma-ên
12Đây là dòng-dõi của Ích-ma-ên, con trai của Áp-ra-ham, do nơi nàng A-ga, người Ê-díp-tô, con đòi của Sa-ra, đã sanh. 13Và đây là tên các con trai của Ích-ma-ên, sắp thứ-tự theo ngày ra đời: Con trưởng-nam của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt; kế sau Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, 14Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa, 15Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích, và Kết-ma. 16Đó là các con trai của Ích-ma-ên và tên của họ tùy theo làng và nơi đóng trại mà đặt. Ấy là mười hai vị công-hầu trong dân-tộc của họ. 17Ích-ma-ên hưởng-thọ được một trăm ba mươi bảy tuổi, rồi tắt hơi mà qua đời, được qui về nơi tổ-tông. 18Dòng-dõi người ở trước mặt anh em mình, từ Ha-vi-la cho đến Xu-rơ, đối ngang Ê-díp-tô, chạy qua A-si-ri.
Ê-sau và Gia-cốp sanh ra
19Đây là dòng-dõi của Y-sác, con trai Áp-ra-ham. Áp-ra-ham sanh Y-sác. 20Vả, khi Y-sác được bốn mươi tuổi, thì cưới Rê-bê-ca, con gái của Bê-tu-ên và em gái của La-ban, đều là dân A-ram, ở tại xứ Pha-đan-A-ram. 21Y-sác khẩn-cầu Đức Giê-hô-va cho vợ mình, vì nàng son-sẻ. Đức Giê-hô-va cảm-động lời khẩn-cầu đó, nên cho Rê-bê-ca thọ-thai. 22Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả thật vậy, cớ sao điều nầy xảy đến làm chi? Đoạn, nàng đi hỏi Đức Giê-hô-va. 23Đức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ.
24Đến ngày nàng phải sanh-nở, nầy hai đứa sanh đôi trong bụng nàng ra. 25Đứa ra trước đỏ hồng, lông cùng mình như một áo tơi lông; đặt tên là Ê-sau. 26Kế em nó lại ra sau, tay nắm lấy gót Ê-sau; nên đặt tên là Gia-cốp. Khi sanh hai đứa con nầy thì Y-sác đã được sáu mươi tuổi.
Ê-sau khinh quyền trưởng-nam
27Khi hai đứa trai nầy lớn lên, thì Ê-sau trở nên một thợ săn giỏi, thường giong-ruổi nơi đồng ruộng; còn Gia-cốp là người hiền-lành cứ ở lại trại. 28Y-sác yêu Ê-sau, vì người có tánh ưa ăn thịt rừng; nhưng Rê-bê-ca lại yêu Gia-cốp.
29Một ngày kia, Gia-cốp đương nấu canh, Ê-sau ở ngoài đồng về lấy làm mệt-mỏi lắm; 30liền nói cùng Gia-cốp rằng: Em hãy cho anh ăn canh gì đỏ đó với, vì anh mệt-mỏi lắm. — Bởi cớ ấy, người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm. — 31Gia-cốp đáp rằng: Nay anh hãy bán quyền trưởng-nam cho tôi đi. 32Ê-sau đáp rằng: Nầy, anh gần thác, quyền trưởng-nam để cho anh dùng làm chi? 33Gia-cốp đáp lại rằng: Anh hãy thề trước đi. Người bèn thề; vậy, người bán quyền trưởng-nam cho Gia-cốp. 34Rồi, Gia-cốp cho Ê-sau ăn bánh và canh phạn-đậu; ăn uống xong, người bèn đứng dậy đi. Vậy, Ê-sau khinh quyền trưởng-nam là thế.
Sáng-thế Ký 26
Y-sác bị đói-kém đi xuống Ghê-ra. – Lời Đức Chúa Trời hứa cho người
1Trừ cơn đói-kém thứ nhứt trong đời Áp-ra-ham, bấy giờ tại xứ lại có một lần nữa. Y-sác bèn đi đến A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra. 2Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Chớ xuống xứ Ê-díp-tô; hãy ở lại xứ mà ta sẽ chỉ cho. 3Hãy ngụ trong xứ nầy, ta sẽ ở cùng ngươi và ban phước cho ngươi; vì ta sẽ cho ngươi cùng dòng-dõi ngươi các xứ nầy và ta sẽ làm thành lời ta đã thề cùng Áp-ra-ham, cha ngươi. 4Ta sẽ thêm dòng-dõi ngươi nhiều như sao trên trời, sẽ cho họ các xứ nầy; hết thảy dân thế-gian đều sẽ nhờ dòng-dõi ngươi mà được phước; 5vì Áp-ra-ham đã vâng lời ta và đã giữ điều ta phán dạy, lịnh, luật và lệ của ta.
Nàng Rê-bê-ca. – Vua A-bi-mê-léc
6Vậy, Y-sác ở tại Ghê-ra. 7Bởi nàng Rê-bê-ca sắc-sảo dung-nhan, nên khi dân xứ đó hỏi thăm vợ người, thì người đáp rằng: “Ấy là em gái tôi,” e khi nói: “Ấy là vợ tôi,” thì họ sẽ giết mình chăng. 8Vả, người ngụ tại xứ đó cũng đã lâu; một ngày kia A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, ngó ngang qua cửa sổ, thấy Y-sác đương giỡn-chơi cùng Rê-bê-ca, vợ người, 9bèn đòi Y-sác mà rằng: Quả thật là vợ ngươi đó; sao có nói: Ấy là em gái tôi? Y-sác đáp rằng: Vì tôi có thầm nói: Chớ khá vì nàng mà tôi phải bỏ mình. 10A-bi-mê-léc hỏi: Ngươi làm chi cho chúng ta vậy? Ngộ có một người dân đến nằm cùng vợ ngươi, ngươi làm cho chúng ta phải phạm tội! 11A-bi-mê-léc bèn truyền lịnh cho cả dân-chúng rằng: Kẻ nào động đến người nầy, hay là vợ người nầy, thì sẽ bị xử-tử.
Y-sác hưng-vượng
12Y-sác gieo hột giống trong xứ đó; năm ấy gặt được bội trăm phần; vì Đức Giê-hô-va đã ban phước cho. 13Người nên thạnh-vượng, của-cải càng ngày càng thêm cho đến đỗi người trở nên rất lớn. 14Người có nhiều bầy chiên, bầy bò và tôi-tớ rất đông; bởi cớ ấy, dân Phi-li-tin đem lòng ganh-ghẻ. 15Mấy cái giếng lúc trước đầy-tớ của Áp-ra-ham, cha người, đã đào, bây giờ đều bị dân Phi-li-tin lấp đất lại hết. 16A-bi-mê-léc nói cùng Y-sác rằng: Hãy ra khỏi nơi ta, vì ngươi thạnh-vượng hơn chúng ta bội phần. 17Vậy, Y-sác bỏ chốn nầy đi đến đóng trại tại trũng Ghê-ra và ở đó.
18Y-sác bèn đào lại mấy cái giếng người ta đã đào trong đời Áp-ra-ham, cha mình, mà bị dân Phi-li-tin lấp đất lại khi Áp-ra-ham qua đời, và đặt tên mấy giếng đó như tên của cha mình đã đặt. 19Các đầy-tớ của Y-sác còn đào thêm giếng nơi trũng, gặp được một giếng nước mạch. 20Nhưng bọn chăn chiên Ghê-ra tranh-giành cùng bọn chăn chiên của Y-sác, mà rằng: Nước đó của chúng ta; nên người đặt tên giếng nầy là Ê-sết. Vì bọn chăn chiên đó có tranh-giành cùng mình. 21Kế ấy, các đầy-tớ đào một giếng khác, thì bị tranh-giành nhau nữa; người đặt tên giếng nầy là Sít-na. 22Đoạn, người bỏ chỗ đó đi đào một giếng khác; về giếng nầy, họ không tranh-giành nhau, nên người đặt tên là Rê-hô-bốt, mà rằng: Bây giờ Đức Giê-hô-va đã để cho chúng ta được ở rộng-rãi, và ta sẽ đặng thịnh-vượng trong xứ.
Đức Chúa Trời lại hứa cùng Y-sác
23Y-sác ở đó đi, dời lên Bê-e-Sê-ba. 24Đêm đó Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha ngươi; chớ sợ chi, ta ở cùng ngươi, sẽ ban phước cho và thêm dòng-dõi ngươi, vì cớ Áp-ra-ham là tôi-tớ ta. 25Y-sác lập một bàn-thờ, cầu-khẩn danh Đức Giê-hô-va và đóng trại tại đó. Đoạn, các đầy-tớ người đào một cái giếng tại nơi ấy.
Y-sác và A-bi-mê-léc kết ước nhau
26Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đi đến viếng Y-sác, có A-hu-sát, bạn mình, và Phi-côn, quan tổng-binh mình, đi theo. 27Y-sác bèn hỏi rằng: Các người ghét tôi, đã đuổi tôi ra khỏi nơi mình, sao còn đi đến tôi mà chi? 28Chúng đáp rằng: Chúng tôi đã thấy rõ ràng Đức Giê-hô-va phù-hộ người, nên nói với nhau rằng: Phải có một lời thề giữa chúng tôi và người, để chúng ta kết giao-ước với người. 29Hãy thề rằng: Người chẳng bao giờ làm hại chúng tôi, như chúng tôi đã không động đến người, chỉ hậu-đãi người và cho đi bình-yên. Bây giờ người được Đức Giê-hô-va ban phước cho. 30Y-sác bày một bữa tiệc, các người đồng ăn uống. 31Qua ngày sau, chúng dậy sớm, lập lời thề với nhau. Rồi, Y-sác đưa các người đó đi về bình-yên.
32Cùng trong ngày đó, các đầy-tớ của Y-sác đến đem tin cho người hay về giếng họ đã đào, rằng: Chúng tôi đã thấy có nước. 33Người bèn đặt tên cái giếng đó là Si-ba. Vì cớ đó, nên tên thành ấy là Bê-e-Sê-ba cho đến ngày nay.
Ê-sau cưới vợ
34Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, cưới Giu-đít, con gái của Bê-ê-ri, người Hê-tít; và Bách-mát, con gái của Ê-lôn, cũng người Hê-tít. 35Hai dâu đó là một sự cay-đắng lòng cho Y-sác và Rê-bê-ca.
Amen. Amen.
Cảm ơn Chúa. Chúng ta hôm nay học đến dòng dõi của Áp-bra-ham là Y-sác. Người đã già sinh được một đứa con. 100 tuổi mới sinh được một đứa con là Y-sác rồi qua đời. Và Y-sác cưới được Rê-bê-ca là người của dòng dõi cha của mình. Rê-bê-ca thọ thai và sanh ra hai đứa con: Ê-sau, Gia-cốp.
Khi đã ở trong bụng, nó đã đánh nhau rồi. Rất là lạ lùng. Mà Chúa đã hứa, bà Rê-bê-ca bà lấy làm lạ. Bà có hỏi Chúa: “Tại sao? Tại kỳ vậy nè, hai thằng ở trong bụng đánh nhau hoài.” Một người mẹ mà nghe cái bụng mình ở trong bụng nó đánh nhau, rất là lạ lùng. Bà mới hỏi Chúa đó. Nó đánh tối ngày sáng đêm, nó ở trong đó. Hai thằng nó không hợp nhau mà đó là sinh đôi. Mà Chúa mới nói bà Rê-bê-ca: “Nó là hai cái dòng rất là lớn và nó sẽ không có hiệp lại với nhau được.” Mà nó vẫn đánh lộn, kinh chiến với nhau. Mà cái dân này nó mạnh hơn dân kia và đứa lớn phải phục đứa nhỏ.
Các bạn thấy, từ trong bụng mẹ là Đức Chúa Trời đã biết tánh tình của chúng ta và Ngài chọn người nào khi chúng ta còn trong bụng mẹ. Đức Chúa Trời đã nhìn thấu tánh tình nó đã từ trong một trứng nước là nó đã có tánh tình rồi. Mà Đức Chúa Trời nhìn thấu được cái tấm lòng của Ê-sau. Đức Chúa Trời nhìn thấy tâm lòng của Gia-cốp. Và Ngài nói đứa lớn nó sẽ phục tùng đứa nhỏ. Đứa nhỏ nó phải giàu có hơn và nó sẽ lớn hơn, giàu hơn cái thằng anh lớn.
Đến ngày sanh nở thì đúng y như vậy. Đứa lớn thì nó ra trước và nó có lông đầy mình hết. Đứa em nó đi ra sau. Ê-sau là đứa lớn, là lông lá đầy mình. Còn em thì không có lông. Nhưng mà khi mà ra đời rồi thì nó lại khinh dễ cái quyền trưởng nam. Đức Chúa Trời nhìn thấu hết. Ê-sau nó là anh nhưng mà nó không tôn trọng cái quyền trưởng nam ngày xưa đó. Khi mà thuở xưa thì người ta rất là quý cái quyền trưởng nam. Anh trưởng là làm hết công việc và hưởng hết tài sản của cha của mình đó. Mà cái thằng này, nó quyền trưởng nam mà nó không nhìn tới. Nó đi mệt thì nó bán rẻ cái quyền trưởng nam bằng một cái miếng canh. Thấy em mình có nấu cái nồi canh, chắc canh đậu màu đỏ. Bán quyền trưởng nam. Mà cái ông em lại là một người lươn lẹo, khôn ngoan.
Đói bụng, “Cho tôi xin miếng súp.” Anh nói: “Bán cái quyền trưởng nam với tôi, tôi mới cho anh ăn.” Thừa cơ hội thằng anh của mình nó đói bụng, bắt nó bán cái quyền trưởng nam.
Thì nó hứa. Đức Chúa Trời nhìn thấu hết. Đức Chúa Trời mới nói cái thằng này không xứng đáng hưởng được cái gia tài của cha mình mà hưởng cái phước hạnh. Không phải là cái gia tài không, nhưng mà nó là cái phước hạnh đời đời của Chúa hứa với dòng dõi của Áp-bra-ham. Vì cớ đó, tất cả những cái sự phước hạnh của Áp-bra-ham sẽ dồn cho đứa em, Jacob. Chúng ta nhìn thấy tánh của Đức Chúa Trời của chúng ta là như vậy. Ngài hứa cái gì cho chúng ta thì Ngài sẽ làm thành việc đó, nhưng chúng ta đừng có khinh khi lời hứa của Đức Chúa Trời.
Vì chúng ta khinh dễ lời hứa của Chúa thì chúng ta sẽ bị mất phước và Đức Chúa Trời không có giúp chúng ta. Đức tin là như vậy đó các bạn. Chúng ta phải nhớ, Đức Chúa Trời là Đấng ban phước cho chúng ta. Ngài hứa thì Ngài sẽ làm thành. Nhưng mà chúng ta đừng có khinh khi lời hứa của Đức Chúa Trời. Nhắc lại: “Chúa ơi, Chúa hứa với Áp-bra-ham.” Bây giờ Chúa hứa với Y-sác đây. Chúng ta thấy Y-sác bị đói kém, đi xuống Gera thì Đức Chúa Trời cũng vẫn hứa cho ông, giống như Đức Chúa Trời hứa cho Áp-bra-ham. Y-sác có một cái người vợ rất là đẹp, y hệt như Áp-bra-ham có bà Sarah thì Y-sác có bà Rê-bê-ca. Cha nào con nấy. Nó cũng cái dòng dõi đó, rồi vợ mình quá đẹp, và phải đi vòng vòng cũng cái tánh lừa dối người khác là “em của tôi.” Tại sao phải lừa dối? Nhưng mà tại vì ông nghe cha mình kể chuyện lại thì ông mới bắt chước ông cha của mình: “Em tôi đó.”
Nhưng mà Chúa lại thương cái dân cư ngụ đây. Chúa không muốn cho họ hại đến ông Y-sác. Cho nên Chúa khiến. Tại sao mà ông vua mà lại nhìn ngang cửa sổ mà thấy Y-sác đang giỡn với vợ mình? Tôi cũng không biết tại sao mà một người vua mà lại nhìn thấu cửa sổ của một người dân. Đức Chúa Trời đã làm việc để cho họ không có đụng tới bà Rê-bê-ca. Ông vua đòi Y-sác đến mà hỏi tại sao ngươi làm như vậy. Vậy ông mới kể là: “Tại vì tôi đi xứ người, tôi sợ vì vợ mà mất mạng, cho nên cũng gạt.” Nhưng mà Chúa khiến cho Abimelech truyền lệnh cho cả dân chúng: “Kẻ nào động đến người này hay là vợ người, sẽ bị xử tử.” Ngày xưa, đó là cái tội mà bị xử tử là cái tội rất là nặng. Nhưng mà ông truyền lệnh như vậy để họ không có đụng đến bà vợ, bà vợ đẹp của Y-sác.
Chúa yêu Y-sác. Rồi Chúa mới hứa với ông, Đức Chúa Trời thề với ông rằng: “Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời.” Giống hệt Ngài hứa với Áp-bra-ham. Mà Y-sác nghe cái lời này thì ghi nhớ và rất là tôn trọng cái lời hứa của Đức Chúa Trời hứa với mình. Một cái người biết kính sợ Đức Giê-hô-va, các bạn. Chúng ta phải biết kính sợ và nghe và gìn giữ cái lời hứa của Đức Chúa Trời với chúng ta.
Vì Áp-bra-ham đã vâng lời Ta và giữ điều răn Ta. Chúa nói tại sao Chúa ban phước cho cái dòng dõi của Áp-bra-ham. Vì người biết kính sợ và vâng giữ cái luật lệ của Chúa. Ngày hôm nay có một số người khinh dễ luật lệ của Đức Giê-hô-va: “Ôi cái luật của Chúa đó là Đức Chúa Trời từ Cựu Ước, đâu có còn hiệu nghiệm nữa. Chúng ta sống thời kỳ Tân Ước, muốn làm gì làm, cái luật lệ đó đã bỏ.” Họ giảng một cái thần học sai bét và họ muốn cho mọi người đều sống giống như họ.
Chúng ta là những người đọc Kinh Thánh, hiểu lời của Chúa và gìn giữ và áp dụng vào đời sống hằng ngày của chúng ta từng ly từng tí. Để chi? Để cho chúng ta được phước hạnh từ dòng Áp-bra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Đó, tới sau này dòng Chúa cũng sẽ hứa là cho người con của I-sác là Gia-cốp. Bởi vì mình mới nói: “Chúa ơi, Chúa hứa với chúng con. Áp-bra-ham, Đức Chúa Trời của Áp-bra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp cũng là Đức Chúa Trời của tôi.” Tại vì tôi đã được ráp vào dân Israel là vì tôi chấp nhận Chúa Giê-xu làm cứu Chúa của tôi và tôi được ráp vào. Tôi sẽ được hưởng phước, tất cả phước lành mà Đức Chúa Trời đã hứa cho Áp-bra-ham, Y-sác và Gia-cốp cũng là phước lành của Chúa để cho tôi. Phải nhắc lại, nhắc lại, nhắc lại với Chúa hoài thì chúng ta sẽ nhận lãnh ân phước mà Chúa đã hứa cho Áp-bra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
Có một cái điều kiện duy nhất là vì ông Áp-bra-ham đã vâng lời Ta và giữ điều răn Ta, phán dạy, lệnh, luật và lệ của Ta. Đó là cái điều kiện, các bạn. Ngày hôm nay chúng ta có nói đi chăng nữa, chúng ta nhắc lời hứa của Chúa, nhắc, nhắc, nhắc. Nhưng nếu chúng ta không có làm đúng theo điều luật của Chúa hứa với Áp-bra-ham, Y-sác và Gia-cốp thì chúng ta không nhận lãnh gì hết. Zero. Ngươi không có làm theo lời của Ta hứa với Áp-bra-ham, Y-sác và Gia-cốp mà ngươi đòi hưởng phước cái gì? Vì họ đã vâng lời Ta.
Số một là vâng lời, các bạn. Chúa nói gì, phải vâng lời. Chúa nói gì, phải vâng lời. Chúa biểu làm gì? Không vâng lời, đứa con phản nghịch, không nhận được gì hết của cha mẹ mình. Đức Chúa Trời là Cha của chúng ta. Chúng ta phải gìn giữ cái điều răn, là cái điều số một là chúng ta phải vâng lời. Vâng lời là cái ưu tiên số một. Và giữ điều răn của Ta phán dạy. Giữ ở trong lòng, chứ không phải giữ ở trong sách vở, ở trong cuốn tài liệu: “Tôi quên hết trơn rồi.” Chúa hỏi: “Tại sao ngươi không vâng lời Ta?” – “Không biết. Không biết.”
Điều răn của Chúa phải nằm lòng, phải học cho thuộc lòng. Không học thuộc thì mình ghi vào miếng giấy để mà mình học hoài mỗi ngày. Vâng lời và giữ, mới giữ trong lòng mới được, chứ không phải giữ trong cái sách vở tài liệu. Luật lệ đó là tất cả những cái gì mà Chúa muốn chúng ta làm, chúng ta phải nằm lòng, thuộc lòng. Mà không thuộc lòng thì xin Thánh Linh của Chúa nhắc nhở chúng ta: “Chúa ơi, luật Chúa nhiều quá, luật lệ của Chúa con quên.” Xin Thánh Linh của Chúa nhắc con. Con có làm cái gì sai, xin Thánh Linh của Chúa nhắc cho con nhớ.
Thánh Linh của Chúa nhắc liền các bạn ơi. Nhiều khi chúng ta làm mà chúng ta không biết. Nhưng mà Thánh Linh của Chúa, chúng ta nằm ngủ, chúng ta nghe tiếng phán của Thánh Linh của Chúa để Ngài gìn giữ chúng ta, thuộc lòng những điều răn và luật lệ của Đức Chúa Trời được. Nhiều lắm các bạn ơi. Bởi chúng ta không có nhớ hết được. Nhiều lắm các bạn ơi. Bởi chúng ta phải tìm kiếm Thánh Linh của Đức Chúa Trời trước tiên. Linh của Đức Chúa Trời sẽ dạy dỗ chúng ta, dẫn dắt chúng ta, làm người thầy giáo dạy chúng ta và dẫn chúng ta vào mọi lẽ thật của Đức Chúa Trời để cho chúng ta được phước hạnh trong đời này, chứ không phải là đợi đến khi đi vào nước thiên đàng.
Có một số người nói: “Thôi, đợi chừng nào tôi vào thiên đàng tôi mới nhận phước. Tôi không cần. Tôi phải sống nghèo ở trong cái thế gian này, tôi mới được nhận lãnh sự giàu có ở trên thiên đàng.” Không phải vậy, các bạn. Vì họ không biết vâng giữ lời luật pháp và luật lệ của Chúa, điều răn của Chúa, cho nên họ nghèo. Họ nghèo rồi họ tự biện luận rằng phải đi đường hẹp. Đường hẹp đó nghèo khổ. Nó phải như vậy để rồi mới được hưởng nước thiên đàng. Có một số người họ tưởng như vậy. Xin Chúa thương xót cho chúng ta.
Biết rằng chúng ta làm gì sai để chúng ta sống một đời sống đẹp lòng Chúa, để chúng ta được hưởng nước thiên đàng sau này. Nhưng mà chúng ta hưởng phước hạnh giống như Áp-bra-ham, Y-sác và Jacob tại trần gian này.
Cảm ơn các bạn đã lắng nghe. Tôi xin kết thúc tại đây.
Trong danh Đức Chúa Giê-xu, con cảm ơn Cha vì Ngài đã gìn giữ chúng con, bảo vệ chúng con và dạy dỗ chúng con, cho chúng con biết vâng giữ điều răn của Đức Chúa Trời để chúng con được hưởng phước. Lời hứa của Ngài cho Áp-bra-ham, Y-sác và Jacob thể nào, thì Ngài cũng hứa cho chúng con thể ấy nếu chúng con biết vâng lời Chúa và gìn giữ mạng lệnh của Đức Chúa Trời.
Xin Thánh Linh của Chúa nhắc nhở chúng con về điều răn của Ngài, luật lệ của Ngài rất là nhiều. Chúng con không nhớ nổi, nhưng Thánh Linh của Chúa sẽ bày tỏ cho chúng con và chúng con có tội, chúng con biết ăn năn để chúng con được hưởng phước hạnh đời đời. Chúng con cảm tạ ơn Cha. Chúng con cầu nguyện trong danh Đức Chúa Giê-xu Christ. Amen.
