
Bài số 55: TẠI SAO CẦU NGUYỆN BỊ XUỐNG DỐC?
(Sưu tầm)
“Ta đã làm nên dân nầy cho ta, nó sẽ hát khen ngợi ta. Song, hỡi Gia-cốp, ngươi chẳng từng kêu cầu ta! Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi đã chán ta! Ngươi chẳng dùng chiên làm của lễ thiêu dâng cho ta, chẳng dùng hi sinh tôn kính ta. Ta chẳng làm phiền ngươi mà khiến dâng lễ vật, cũng chẳng làm nhọc ngươi mà khiến đốt hương. Ngươi chẳng lấy tiền mua xương bồ cho ta, và chẳng lấy mỡ của hi sinh làm cho ta no; nhưng lại lấy tội lỗi mình làm cho ta phiền, lấy sự gian ác làm cho ta nhọc.” (Ê-SAI 43:18-24)
Khi xem xét kỹ sự xuống dốc của các đời sống cầu nguyện, dầu trong phạm vi cá nhân hay trên quy mô Hội Thánh, người ta đều thấy có ít nhứt là 5 nguyên nhân chính yếu sau đây:
1-Thứ nhứt, là vì mất đi tình yêu ban đầu
(Khải huyền 2:4): Được tự do đến cùng Đức Chúa Trời Toàn Năng là Cha mình “để tìm được ơn trong thì giờ có cần dùng” vốn là một đặc quyền mà chỉ có con trai con gái Ngài mới có. Được cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời Chí Thánh vốn là một ân huệ lớn đã được ban ra nhờ sự đổ huyết của Đức Chúa Jêsus. Cầu nguyện là đem thiên đàng vào cuộc sống, nhưng rồi cũng như mọi phước hạnh khác của đời sống Cơ-đốc, chẳng bao lâu đó đặc quyền thuộc linh nầy cũng sẽ trở thành một công việc nặng nề nhàm chán, một khi mà đã mất tình yêu ban đầu.
Nghĩa là khi mất tình yêu ban đầu hay khi tình yêu ban đầu theo thời gian trở nên nguội lạnh, thì cả đến một ân điển lớn cũng từ từ trở thành luật pháp.
Hậu quả đáng buồn nầy cũng hoàn toàn giống với sự từ từ phai lợt tình yêu ban đầu của nhiều cuộc hôn nhân. Vào những ngày tháng mới hẹn hò hay trong những năm tháng nồng cháy tình yêu, thì việc được đi chơi riêng với người yêu và được trò chuyện cùng người yêu thật là một ân huệ, thật là một “ân điển”. Nhưng khi tình yêu ban đầu đã mất, “bị” bắt phải đi chơi riêng với nhau, “bị” phải trò chuyện cùng nhau thật là một “điều luật” nặng nề, một bổn phận gây cho chán ngán.
Đấng yêu thương chúng ta có phán: “Song, hỡi Gia-cốp, ngươi chẳng từng kêu cầu ta! Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi đã chán ta!” Con trai được cưng quý hơn hết đã chán Cha mình. Người vợ được yêu đến nổi phải bỏ cả mạng sống đã chán chồng mình. Nghe thật kinh khủng thay nhưng sự thật là như vậy đó. Vậy, bây giờ chúng ta phải làm sao đây? Để trả lại vị trí “ân điển” của sự cầu nguyện, chúng ta chỉ còn có cách là nhen lại và thổi bùng lên ngọn lửa của tình yêu kính Chúa ban đầu. Mà để nhen lại và làm cho bùng cháy lòng yêu mến Chúa thì không có gì hữu hiệu hơn, mau chóng hơn là đọc và suy gẫm Lời của Chúa. Lời Chúa là Lời Sự Sống. Lời Chúa làm cho tình yêu sống lại. Những bực vĩ nhân Cơ-đốc nổi tiếng về sự cầu nguyện như Augustine, Martin Luther, John Wesley, George Mueller, David Cho cùng vô vàn “anh hùng cầu nguyện” khác trong “đám mây rất lớn” (Hê-bơ-rơ 12:1) các thánh trong Đạo Đức Chúa Trời, cũng đồng thời là những người nổi tiếng sốt sắng về sự chuyên lòng suy gẫm Lời Chúa.
2-Thứ hai là vì đức tin đã bị suy yếu.
“Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài”. Sự tin Chúa và “đến gần Chúa” luôn luôn song hành với nhau.
Dù chúng ta có nói một ngàn lời văn hoa về đức tin của chúng ta, dù chúng ta có biện luận Thần học hay ho hợp lý đến kiểu chi đi nữa, hể chúng ta cầu nguyện yếu kém mỏi mệt thì điều đó đã đủ để chứng minh rằng đời sống đức tin của chúng ta đã yếu kém mỏi mệt.
Người không tin Chúa khi được thành công thì tự khen thưởng cho tài năng mình. Người không tin Chúa khi gặp khó khăn thì vận dụng tài năng mình để tự giải quyết hay tìm đến với thế nhân để nhờ sự giúp đỡ. Người tin Chúa yếu đuối khi được thành công thì vừa cảm ơn Chúa, vừa suy nghĩ đến tài năng của mình. Người tin Chúa yếu đuối khi gặp khó khăn thì cầu nguyện sơ sơ đôi chút rồi rán đi xoay xở hay tìm sự cứu giúp nơi người khác.
Vì “mất tình yêu ban đầu” và “đức tin đã bị suy yếu” cũng giống như hai bậc cha mẹ đã sinh ra đứa con “cầu nguyện yếu kém” nên phương thuốc cho hai cha mẹ nầy vẫn chỉ là một: Phương thuốc đó vẫn chỉ là Lời Sự Sống. Đức tin luôn luôn đến bởi Lời của Đức Chúa Trời (Rô-ma 10:17) Xưa nay mọi cuộc phục hưng đều bắt đầu với sự quay về cùng Lời Đức Chúa Trời cách thành thực. Các cuộc phục hưng tại Bắc Mỹ và Âu châu hai thế kỷ trước cũng như các cuộc phục tại Đại Hàn, Trung Quốc, Mam Mỹ, Phi châu gần đây đều do người ta hết lòng hết sức đến cùng Đức Chúa Trời, ăn năn sửa mình lại theo lời Kinh Thánh và và tìm kiếm cầu xin cho các Lời Hứa của Ngài được ứng nghiệm. Bác sĩ Tống Thượng Tiết đã từng có một thời kỳ yếu đuối nguội lạnh đến mức độ hầu như chối bỏ Chúa và quay lại với các tôn giáo cổ truyền Trung hoa. Nhưng rồi Lời Đức Chúa Trời đã khôi phục đức tin cho ông. Với sáu tháng trong Bệnh viện Tâm thần Newyork ông đã đọc xong 41 lần Kinh Thánh trọn bộ. Từ đó về sau, mỗi ngày ông đã “ăn nuốt” Lời Chúa ít nhất hai tiếng đồng hồ và cả cuộc đời ông, theo như những người đồng thời làm chứng và mô tả lại, đã trở nên một ngọn đuốc sống vì đẫm nhuần trong Lời Chúa và trong sự cầu nguyện.
3-Nguyên do thứ ba là đời sống được an nhàn vô sự.
Một tôi tớ Chúa kinh nghiệm đã từng phát biểu rằng “Sự yên bình theo kiểu thế gian là yên bình chết người”. Sóng gió của biển đời tuy làm cho ta cực nhọc gian nan nhưng cũng đồng thời đẩy con thuyền cầu nguyện tiến mau phăng phăng. Thuyền cầu nguyện mà chạy trên biển bình tịnh tuy có khỏe thiệt, nhưng thường thường mỗi ngày chẳng nhích được bao nhiêu và có nguy cơ sẽ bị chết đói trên biển. “Còn tôi, trong lúc may mắn tôi có nói rằng: Tôi chẳng hề bị rúng động.” (Thi Thiên 30:6-7) Đời sống an ổn vô sự tự nó không có gì sai, song do ảnh hưởng của sự sa ngã, hoàn cảnh nầy thường đem đến sự tự tin xác thịt, tự phụ xác thịt, và đặc biệt là sự lười nhác cầu nguyện.
Cho nên để giải cứu chúng ta khỏi tình trạng nầy Cha Yêu Thương của chúng ta thường hay sai những khó khăn và hoạn nạn đến, hầu xua đuổi chúng ta đến chốn cầu nguyện. Lại cũng có khi chẳng những sai họan nạn đến, Ngài còn cũng thường cố ý cho họan nạn cứ kéo dài, hầu để cầm giữ chúng ta bền trong sự cầu nguyện.
C H Spurgeon đã có lần ví đời sống an ổn nhàn nhả với những buổi chiều hè mát mẻ, là lúc mà trẻ con thường hay rong chơi trên các cánh đồng. Trong những lúc trời như thế trẻ con miền quê thường đi lang thang đây đó, có khi chúng đi rất xa nhà. Chúng vào rừng, chúng băng qua các thung lũng, rảo qua các cánh đồng, rong chơi dọc theo các bờ sông, chúng đi mãi, đi mãi có khi lạc cả vào nơi nguy hiểm…
Điều gì có thể cảnh báo chúng và làm cho chúng sực tỉnh để quay trở lại? Spurgeon nói rằng đó là những cơn mưa giông. Những cơn mưa giông với mây đen xám xịt và những cơn gió mạnh cùng với sấm chớp báo hiệu sẽ làm cho chúng hoảng sợ, bỏ cả mọi sự để chạy mau về nhà. Cho nên sự thật rất hiển nhiên mà ai ai cũng có thể kinh nghiệm được, đó là trong đời người ta, những năm tháng có nhiều giông bão hơn hết, sấm chớp hơn hết, thường thường cũng là những năm tháng mà người ta tìm kiếm Đức Chúa Trời hhơn hết, đến gần Đức Chúa Trời hơn hết, cầu nguyện sốt sắng hơn hết, cầu nguyện thành thực hơn hết và tha thiết hơn hết.
4-Nguyên do thứ tư là vì sự giàu có sung sướng.
Giàu có sung sướng là một ơn phước, song cũng đồng thời là một thử thách ghê ghớm. Một nhân vật đời xưa trong Kinh Thánh đã từng cầu nguyện rằng:
Tôi có cầu Chúa hai điều;
Xin chớ từ chối trước khi tôi thác:
Xin dan xa khỏi tôi sự lường gạt và lời dối trá;
Chớ cho tôi nghèo khổ, hoặc sự giàu sang;
Hãy nuôi tôi đủ vật thực cần dùng,
E khi no đủ, tôi từ chối Chúa,
Mà rằng: Đức Giê-hô-va là ai?
Và lại kẻo e tôi bị nghèo khổ, ăn trộm cắp,
Và làm ô danh của Đức Chúa Trời tôi chăng.
(Châm Ngôn 30:7-9)
2 Sử-ký 18:1 chép rằng: “Giô-sa-phát đã được nhiều của cải và sự vinh hiển, bèn kết sui gia cùng A-háp”. Giô-sa-phát trước nay nổi tiếng về sự yêu mến Chúa, nhưng khi đã giàu có và vinh hiển thì bắt đầu thích có bạn giàu, và cũng đồng thời bắt đầu khoan nhượng với những bạn xấu, nhưng giàu, để cuối cùng kết sui gia với một nhân vật nổi tiếng gian ác là vua A-háp.
Đức Chúa Jêsus cũng đã từng lưu ý rằng sự giàu cũng có thể trở thành một trở ngại tâm linh: “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người giàu vào nước thiên đàng là khó lắm. Ta lại nói cùng các ngươi, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào nước Đức Chúa Trời.” (Ma-thi-ơ 19:23,24) và “Phần rơi vào bụi gai, là những kẻ đã nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín (Lu-ca 8:14).
Sỡ dĩ như vậy là vì người giàu hay nhờ cậy nơi tiền bạc của cải nên giảm sút lòng nhờ cậy Chúa, và vì thế mà ít cầu nguyện. Người ta không thể cùng một lúc tin tưởng nhờ cậy nơi của cải tài sản, đồng thời với sự tin tưởng nhờ cậy Chúa. Lại nữa, người giàu sang cũng là người rất bận rộn. Bận rộn với của cải, nhà cửa, xe cộ, khách khứa, tiệc tùng, lễ nghĩa…bận rộn với công việc, và bận rộn với danh sách bà con bè bạn hầu như cứ càng ngày càng dài ra thêm không dứt. Kinh Thánh khi chép về tiểu sử của Giô-sa-phát thì tiết lộ rằng “Người có nhiều công việc” (“he had much business” -King James- “he had many works” – American Standard) (2Sử Ký 17:13). Phải chăng là vì “too much business” và “too many works” mà đã làm cho vị vua nổi tiếng tin kính nầy không còn thì giờ tĩnh nguyện nữa, và Vua đã dần dần trở nên sa sút yếu đuối, đến đỗi đã dẫn mình vào những quyết định nguy hiểm?
5-Nguyên do thứ năm là vì thiếu sự mặc thị.
Đời sống nào mà thiếu sự mặc thị hay khải thị (Kinh Thánh Anh văn là “revelation”) về hai điều sau đây sẽ không cầu nguyện mạnh mẽ được:
Một là thiếu sự mặc thị về mục đích tổng quát chung và mục tiêu cụ thể riêng cần phải đạt tới. Lời cầu nguyện có một mục đích rõ ràng và một mục tiêu cụ thể thì sẽ mạnh mẽ. Tất nhiên là dù trong phạm vi cá nhân hay trên quy mô Hội Thánh, các mục đích và mục tiêu cho sự hiện hữu và sự kêu gọi phải đến từ những Lời Hứa và những Mạng Lịnh cụ thể của Kinh Thánh.
Hãy xem cách những con ngỗng trời Canada bay khi chúng di thê về phương Nam với cách các con chim sẻ bay luợn vơ vẩn trên nóc nhà và sau vườn: Một đằng thì sải cánh không ngừng nghỉ trên nền trời xanh bao la tiến theo một mục đích với một mục tiêu, lộ trình rõ rệt, một đằng thì chỉ “bay đi đây đó” (Châm Ngôn 26:2) quanh quanh quẩn quẩn, bất chợt, bay cũng được mà không bay cũng được. Bay thì cũng không biết tại sao bay, không bay thì cũng không hiểu tại sao không bay.
Những lời cầu nguyện quanh quẩn, bất chợt, có cầu nguyện cũng được, không cầu nguyện cũng được, cầu nguyện rồi cũng không nhớ là đã cầu nguyện việc gì…chỉ chỉ bay quanh quẩn trước hè và sân sau chớ không thể bay thấu mây xanh để đến “Ngôi Trời” được. Khi chỉ bay lượn vơ vẩn quanh hè thì dù cánh có nhiều lông thì cũng chỉ làm cho nặng thêm chớ không ích lợi. Những lời cầu nguyện “vơ vẩn đây đó” thì dù văn chương hoa mỹ đến đâu thì chỉ đủ để che đậy một nội dung nghèo nàn và trống rỗng.
Những lời cầu nguyện của các vĩ nhân trong Kinh Thánh và Hội Thánh thời Thượng cổ bao giờ cũng hùng mạnh, tha thiết và đầy quyền năng vì luôn luôn có mục đích và mục tiêu rõ ràng. Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên đi đâu cũng cứ lập bàn thờ mà cầu khẩn Chúa xin Ngài làm xong các Lời Hứa. Họ cầu khẩn, họ tranh luận, họ “vật lộn” với Chúa để đòi ban phước vì Chúa đã hứa rằng họ sẽ trở thành một nguồn phước. Lời cầu nguyện của Môi-se, của Đa-vít, của Đa-ni-ên, mục tiêu thật rõ ràng…Thử hỏi các môn đồ trên phòng cao trước và sau Lễ Ngũ tuần Lịch Sử có cho phép những lời cầu nguyện của mình bay bảng lãng hết góc vườn nầy qua góc vườn kia không?. Như những những họng súng đại bác hướng thẳng lên trời, đời sống của họ cứ nhắm thẳng đến mục đích và mục tiêu mà Đức Chúa Trời đã mặc khải.
Hai là thiếu sự mặc khải về chiến trận thuộc linh mà tín đồ đang trải qua. Đây là vấn đề quan trọng. Nhiều Cơ đốc nhân đã cầu nguyện cách sơ sài yếu đuối vì không biết rằng mỗi người được cứu đều là kẻ thù của ma quỉ, đều là những chiến binh của Đức Chúa Trời, thế giới nầy không phải là một sân chơi mà là một bãi chiến trường, và hiện tại chúng ta đang ở trong vùng đất địch. Ê-phê-sô 6:6-10 chép:
“Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài. Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỉ. Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy. Vậy nên, hãy lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, hầu cho trong ngày khốn nạn, anh em có thể cự địch lại và khi thắng hơn mọi sự rồi, anh em được đứng vững vàng. Vậy, hãy đứng vững, lấy lẽ thật làm dây nịt lưng, mặc lấy giáp bằng sự công bình, dùng sự sẵn sàng của Tin Lành bình an mà làm giày dép. Lại phải lấy thêm đức tin làm thuẫn, nhờ đó anh em có thể dập tắt được các tên lửa của kẻ dữ. Cũng hãy lấy sự cứu chuộc làm mão trụ, và cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời. Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đổ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ. Cũng hãy vì tôi mà cầu nguyện, để khi tôi mở miệng ra, Chúa ban cho tôi tự do mọi bề, bày tỏ lẽ mầu nhiệm của đạo Tin Lành, mà tôi vì đạo ấy làm sứ giả ở trong vòng xiềng xích, hầu cho tôi nói cách dạn dĩ như tôi phải nói.”
Thật là quá rõ. Trận chiến mà Hội Thánh nói chung và mỗi Cơ-đốc nhân nói riêng ngày nay đang chiến dấu không phải giữa người với người mà là với những thế lực ác đang vận hành bên trên và đàng sau những con người. Đây là một chiến trận thuộc linh lớn lao, ác liệt kéo dài suốt cả đời sống Cơ-đốc nhân. Trong trận chiến nầy với ma quỷ không có vấn đề khoan nhượng hay “hưu chiến”. Trong trận chiến nầy, chẳng những chúng ta phải trang bị tinh thần sẵn sàng chiến đấu của chiến binh, mà cũng còn phải vũ trang đầy đủ mọi khí giới của một chiến sĩ.
Trong các thứ giới nầy “làm đủ mọi thứ cầu nguyện nài xin” là loại khí giới cực kỳ quan trọng. “Vả, hễ đang khi Môi-se giơ tay lên, thì dân Y-sơ-ra-ên thắng hơn; nhưng khi người xụi tay xuống, dân A-ma-léc lại thắng hơn” (Xuất 17:11) vẫn là sự thực trong mọi chiến trường thuộc linh, vào bất cứ thời nào, tại bất cứ nơi đâu. Những “danh tướng” thời nay trong chiến trường thuộc linh như Francis Frangipane, Peter Wagner, Ed Silvoso…bao giờ cũng đề cao cầu nguyện, kêu gọi cầu nguyện, luôn luôn nhấn mạnh rằng cầu nguyện như một thứ vũ khí hàng đầu, dầu trong công cuộc phòng ngự, trong chiến trận mở đường hay trong mọi cuộc công kích.
