Ơn Thượng Đế Nhậm Lời Cầu Nguyện

Cố Mục Sư Nguyễn Duy Xuân
LỜI TÁC GIẢ.
- Mục đích tôi viết quyển sách làm chứng này :
Trước tiên cốt ý để ngợi khen Đức chúa Trời là Đấng đã ban ơn qua sự nhậm lời cầu nguyện, phù hộ và dẫn dắt gia đình chúng tôi trên Thiên lộ trải qua hơn 40 năm.
Với những lời thành thực và đơn sơ, sách này được hiến lên cho Chúa như một khí cụ nhỏ trong tay Ngài, giúp cho anh em trong Chúa nào có dịp đọc qua hiểu được ít nhiều những ơn phước mà Đức Chúa Trời đã sẵn lòng ban cho chúng tôi thể nào, thì chính Ngài cũng sẵn lòng ban ơn cho anh em thể ấy.
Ước vọng chính của chúng tôi là muốn ghi lại những ơn phước đã nhận được do tình yêu thương của Chúa ban cho để nói lên tiếng nói chân thành với đồng bào, là người chưa tin Chúa, về những ơn phước trong thời quá khứ cũng như hiện tại mà Chúa vẫn còn sẵn lòng thi thố nữa trong cuộc đời chúng tôi và những người tin Ngài.
Nguyện Chúa dùng quyển sách nhỏ này soi đường dẫn lối cho đồng bào hiểu được ít nhiều về tình yêu của Cứu Chúa Jêsus, để quí vị có thể tin Ngài và được phước cũng như chúng tôi đã được. Với lòng mong ước như vậy nên tôi viết quyển sách nhỏ này cùng chịu luôn tiền ấn loát biếu không cho quí vị, mong sao quí vị gặp được Cứu Chúa.
- Thể theo khuôn khổ có giới hạn của quyển sách mà tôi đã phỏng định trước, tôi chỉ ghi lại một số ơn phước có lợi ích chung…
Vả lại, sự viết bài sẽ không theo lối ký truyện, cũng như không dám nói đến thành quả của đời sống cá nhân, hoặc trên chức vụ truyền giáo. Nhưng tôi chỉ chú trọng đến những ơn bảo hộ của Thượng Đế và sự nhậm lời cầu nguyện của Ngài mà thôi.
- Cám ơn Bà Phan Thị Hợi, Vợ tôi, đã khuyến khích tôi viết quyển sách nhỏ làm chứng này.
Khi viết xong bản thảo, vợ tôi là người đọc trước nhất, người có vẻ hơi e ngại về việc tôi ghi lại những điều đúng như thực sự đã xảy ra, sợ làm phật ý những nhân vật có liên quan đến những sự việc mà tôi có đề cập đến. Nhưng đã muốn ghi lại cho đúng những dữ kiện thực tế thì tôi cũng không thể còn cách nào khác.
- Cám ơn Duy Tân, con trai lớn của tôi đã giúp tôi được nhiều ý kiến xây dựng.
- Cám ơn Tiến Sĩ Bùi Đức Nguyên, đã có công sửa lại dùm các dấu HỎI NGÃ và một vài TỪ NGỮ thông dụng NAM BẮC.
- Nếu có chỗ nào lời văn sơ sót hoặc khó đọc xin đọc giả vui lòng lượng thứ cho. Cám ơn.
SAN – JOSÉ, California, mùa Nô-ên năm 1982.
Mục sư Nguyễn Duy Xuân, Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Việt Nam SAN JOSÉ, California.
LỜI GIỚI THIỆU
Thật là một vinh dự được viết lời giới thiệu cho quyển làm chứng về những Ân phúc đã được thi thố trong cuộc đời TIN và HẦU VIỆC của một TÔI TỚ của ĐỨC CHÚA TRỜI (THƯỢNG ĐẾ) Chí Cao.
Được gặp Mục sư Nguyễn Duy Xuân khoảng gần một năm trước đây. Mặc dầu không được chứng kiến những điều đã xảy đến cho ông, nhưng khi đọc những mẫu chuyện lạ lùng này thì mới thấy được bàn tay diệu kỳ của THƯỢNG ĐẾ. Nhưng Ngài là ai mà lại có quyền năng làm những việc lạ lùng ấy?
Nếu đó cũng là sự thắc mắc của quí vị. Thì quyển sách mà quí vị đang có đây gói gém lời kể của một người đã tìm giải đáp cho câu hỏi đó. Mục sư Nguyễn Duy Xuân.
Còn nếu quí vị đã biết được THƯỢNG ĐẾ đó chính là Chúa Cứu Thế GIÊ-XU rồi. quyển sách nầy sẽ thêm những lời chứng quả quyết rằng Chúa hằng quan tâm đến đời sống người TIN và HẦU VIỆC Ngài. Hơn thế nữa, Chúa vẫn còn làm phép lạ cứu giúp những người đặt lòng TIN và TRÔNG CẬY nơi Ngài. Như lời Thánh Kinh đã chép: “Chúa Giê-xu Christ hôm qua, ngày nay và đời đời không hề thay đổi.”
Nguyện xin ơn phước lành từ Chúa xuống trên người viết quyển sách nầy cùng hết thảy mọi người đọc đến. A men.
Mùa Xuân 1983.
Bùi Đức Nguyên, PhD
MỤC LỤC
- Hai mươi hai năm sống dưới mái gia đình cha mẹ 3
- Hai năm tại Trường Kinh Thánh 5
- Ơn Chúa dẫn dắt và giải cứu khi lập gia đình 8
- Chúa dẫn đưa ra khỏi Bến Cát đầy biến loạn 15
- Đấng bảo hộ tại Thủ Đức 20
- Ơn thương xót của Chúa tại Long Thành 25
- Thoát nạn tại Hoà ninh 37
- Mười bốn năm phục vụ Chúa ở Nam Vang 43
- Lòng yêu mến Đền thờ 59
- Được kêu gọi đặc biệt sang Pháp 52
- Thoát nạn tại Nam Vang 75
- Ân Thượng Đế tại đất Pháp 88
- Được kêu gọi sang Mỹ 100
- Những đặc ân Chúa dành cho sau 5 năm hầu việc Chúa tại Hội Thánh San-José (sẽ viết tiếp) 119
CHƯƠNG 1
HAI MƯƠI NĂM SỐNG DƯỚI MÁI GIA ĐÌNH CHA MẸ
ĐƯỢC TỈNH LẠI SAU GẦN MỘT GIỜ BỊ TẮT THỞ.
Cảm tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đấng đã để riêng tôi ra từ trong lòng mẹ, lấy ơn điển Ngài cứu tôi và kêu gọi tôi. Lúc tôi được lên 5 tuổi, đã có lần bị chết vì một cơn bạo bịnh. Ông thân tôi vì quá thương con mà không biết cách nào khác nên cứ ôm tôi vào lòng chạy tới, chạy lui hàng giờ kêu xin Trời cứu giùm. Tạ ơn Chúa, Ngài động lòng thương xót cứu tôi tỉnh lại!
Mặc dầu tôi lớn lên trong một gia đình Phật Giáo, song ông thân tôi vẫn kính Đức Chúa Trời. Nhớ lại lúc 12 tuổi, tôi hay chế nhạo Đạo Tin Lành mà Chú tôi đã tin theo. Ông thân tôi khuyên: “Con đừng chế nhạo Đạo Chúa, Đạo đó mới là chánh, còn đạo mình đây là chỉ theo chơi cho vui với bạn bè.” Lời khuyên của ông thân tôi đã ghi sâu vào óc, nên khi bà thân tôi có đi chùa, tôi cũng theo cho vui vậy thôi, chớ thực ra tôi không có vẻ gì sùng bái. Và hơn nữa, tôi không còn chế nhạo Đạo Tin Lành mà trái lại, mỗi chiều thứ năm còn đến nhà ông Chú tôi học Kinh Thánh và cầu nguyện.
ƠN CHÚA CỨU KHỎI CHÌM TÀU.
Vào khoảng năm tôi được 13 tuổi, một hôm tôi đi du lịch Nam vang trở về, chiếc tàu tôi đi đang chạy giữa sông Mêkông thì thình lình chân vịt bị gãy, không phương cứu chữa, người ta đành để cho tàu trôi nổi, lắc lư, mặc cho sóng gió đẩy xô. Lúc đó độ 6 giờ chiều, nhìn lên trời thấy mây khói đen kéo đến đen kịt, càng lúc càng dầy đặc, ai nấy đều khủng khiếp lo sợ! Mấy người mạch lô leo lên mui tàu mở ống phao sẵn để phòng nạn, nhưng hành khách hàng trăm làm gì có đủ! Mấy người già cả ngồi kêu Trời, Phật phù hộ. Còn tàu cứ liên tục thổi còi vang rền để kêu cứu nghe mà rợn óc! Gió bắt đầu thổi mạnh và sóng càng lúc càng to. Để đề phòng tàu bị lật, thuyền trưởng truyền cho mọi người ngồi xuống, không được di chuyển tới lui.
Về phần tôi, nhớ lại Chúa Giê-xu quyền năng mà Chú tôi đã dạy, tôi mở miệng kêu “Giê-xu cứu! Giê-xu cứu!” Thình lình thấy từ xa xa có một chiếc tàu chạy đến, ai nấy đều vui mừng và chẳng bao lâu thì tàu tới. Người lái tàu nói: “Tôi nghe tàu kêu cứu; tôi cho chụm lửa thêm và mở hết tốc lực chạy tới để kéo tàu vào bờ cho kịp cơn giông”.
Sau khi họ lôi tàu được vào bờ và cho hành khách đổ bộ vừa xong, thì một cơn giông lớn đùng đùng thổi đến và kéo dài đến nửa đêm, cây cối ngả đổ nghe rắc rắc rất khủng khiếp! Nhưng mỗi người cảm thấy lòng vui mừng vì đã thoát nạn, và cho là họ có sự may mắn; còn tôi thì hát Halêlugia để cảm tạ ơn Giê-xu giải cứu!
ƠN CHÚA CỨU KHỎI BỊ BẮT NÊN KHỎI LIÊN CAN TÙ TỘI.
Cám ơn Chúa, lúc tôi được 17 tuổi, Ông bà thân tôi tin Chúa Giê-xu và cũng sốt sắng dẫn các con đi nhà thờ để tin Chúa, nhưng thật ra tôi vẫn chưa hiểu gì về Đạo. Lúc được 19 tuổi, thỉnh thoảng tôi cũng theo người Anh tôi đi chơi. Người có đầu óc muốn làm anh hùng cho xóm làng, lính tráng nể mặt.
Nhớ lại khoảng tháng Tư, năm 1940, trong một cuộc cải lộn với ba tên lính vì họ có thái độ hóng hách và ăn hiếp dân hiền, Anh tôi rút trong túi ra một con dao nhỏ dài hai tấc đâm một tên chết tại chỗ. Người liền chạy trốn vào rừng; còn tôi phải lẩn trốn trong một cái nhà cùng xóm. Nghe bọn lính kêu nhau: “Kiếm bắt thằng em nó”, tôi cầu nguyện xin Chúa cứu tôi thoát cảnh hoạn nạn nầy và hứa sẽ dâng mình hầu việc Chúa trọn đời. Cám tạ ơn Chúa, Ngài đáp ứng lời cầu nguyện, nên dầu có độ 10 tên lính và năm, bảy ông làng đi kiếm từng nhà, khắp xóm mà cái nhà tôi đang trốn họ lại không ghé vào lục soát. Thật như có thiên sứ của Đức Chúa Trời đứng trước cửa nhà để xô đuổi họ đi chỗ khác vậy.
Sau khi đám người đi tìm kiếm qua khỏi, tôi nghĩ rằng mình phải trốn cho xa mới mong thoát thân được nên liền vội vã qua sông và băng ngang qua một cánh đồng rộng lớn. Đi được chừng năm, sáu cây số thì lạc vào một vùng lao sậy, sình lầy, đi mãi mà vẫn còn lẩn quẩn trong rừng. Hơn nữa, lúc bấy giờ độ một giờ trưa, trời nắng như thiêu, bụng lại đói, lòng tôi rất lo ngại sợ không ra khỏi cánh rừng. Tôi dừng lại, cúi đầu cầu xin Chúa phù hộ và dẫn dắt qua cơn nguy hiểm! Thật Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện nên Chúa khiến một em nhỏ mà tôi quen độ 12 tuổi ở gần mé rừng đó đang thả rểu đi chơi; đồng thời Ngài cũng dẫn tôi từ trong rừng sậy đi ra ngay chỗ em nhỏ nầy vừa đi tới. Đang khi tôi lủi thủi bước đi, thình lình nghe tiếng kêu: “Anh Xuân”. Mừng quá! Tôi hỏi: “Mầy đi đâu vậy?” – “Đi chơi!” – “Trại mầy ở đâu?” – “Cách đây độ một cây số.” Tôi liền theo đứa nhỏ về trại. Sau khi dùng cơm xong, tôi tiếp tục vượt qua cánh đồng đến chiều tối mới tới chỗ có xóm làng…
Sau đó vài tháng, anh tôi bị bắt và bị kêu án 20 năm tù, còn bọn lính, một số bị cách chức, số khác bị đổi đi xa, nên tôi trở về nhà bình yên, kể như vô tội! Cám ơn Chúa. Nếu Ngài không che chở, để tôi bị bắt lúc xảy ra án mạng, chắc đã bị trả thù cách hung bạo, và có thể bị cáo gian liên can tù tội.
CHƯƠNG HAI
HAI NĂM TẠI TRƯỜNG KINH THÁNH ĐÀ NẲNG.
Cám ơn Chúa. Sau biến cố này, tôi sốt sắng làm chứng về quyền phép của Chúa, thường ngồi trước mặt năm, ba người để làm chứng về Chúa cách dạn dĩ. Trong Hội Thánh, (Hội Thánh Mỹ An) tôi được bầu cử làm Trưởng ban Thanh niên, Giảng viên Trường Chúa Nhật và Chấp sự.
ƠN CHÚA DẪN ĐƯA ĐẾN TRƯỜNG KINH THÁNH ĐÀ NẲNG
Năm 22 tuổi, tôi gởi đơn xin học Trường Kinh Thánh tại Đà Nẵng và được chấp thuận. Nhưng có một việc trở ngại khó vượt qua, ấy là tôi chưa có thẻ căn cước. Vì lúc bấy giờ, mặc dầu là người Việt Nam, nhưng đi từ miền Nam ra Trung và miền Trung vô Nam, buộc phải có thẻ căn cước mới được phép di chuyển. Thẻ căn cước xin rất khó! Trước hết xin ở làng, đến quận, rồi tỉnh, phải mất một thời gian lâu mới khả dĩ xin được. Phần thì ngày nhập học cũng sắp đến nên tôi nghĩ rằng không thể nào lo kịp. Nhưng bởi đức tin tôi cầu nguyện, xin Chúa đưa đường, nên tôi đánh liều xách vali lên Sài Gòn. Khi đến Sài Gòn, tôi tìm một người quen có một người con rể làm việc ở nhà ga xe lửa để nhờ mua dùm tôi một vé đi Đà Nẵng, vì tôi không có giấy căn cước nên không mua được. Ông ấy trả lời: “Làm sao được, chắc chắn một trăm phần trăm thầy không thể nào đi được”.
Không thất vọng, tôi tìm các anh em sinh viên cùng đi học với tôi trong khoá nầy, xin giúp cho bằng cách mua chung nhau các vé. Một sinh viên sẵn lòng giúp tôi trong việc nầy là thầy Hằng (mà sau này là Mục sư Nguyễn Thanh Hằng). Thầy mua dùm tôi được một vé. Nhưng làm sau có thẻ căn cước để trình khi vô cửa? Đứng trước nhà ga tôi thầm nguyện, xin Chúa đưa dắt cách nào để có thể vào được cổng xe lửa. Thình lình có tiếng nhân viên hoả xa kêu: “Mấy anh em sinh viên Tin Lành lại cửa sau để vô”. (Vì lúc bấy giờ nhà binh Nhật đi rất đông cân đồ cho nhà binh chưa xong mà sắp tới giờ xe lửa chạy, nên họ cho chúng tôi vào cửa sau). Tôi cùng với các sinh viên xách va-li vô cửa. Khi được vào xong, tôi liền tẻ riêng ra đi thẳng lên xe, lòng mừng khấp khởi, miệng lẩm bẩm tạ ơn Chúa.
Con đường xe lửa từ Sài Gòn ra Đà Nẵng độ một ngàn cây số. Xe chạy hai đêm một ngày, có mấy trạm xét thẻ căn cước. Qua mỗi trạm xét, tôi vẫn ngồi yên cầu nguyện, những nhân viên đi xét giấy, lúc đến gần tôi đều ngó qua phía khác và đi qua. Khi tới Đà Nẵng, là trạm khó nhất, Chúa cho tôi bình tĩnh, tay xách va li chen ra cửa, mọi người phải trình giấy, còn tôi cứ chậm rãi bước đi, chẳng ai kêu hỏi chi. Thật cám ơn Chúa có đưa đường một cách rất diệu kỳ! Đến Trường Kinh Thánh, cụ Đốc học khuyên tôi không nên đi xa, vì sợ bị xét hỏi căn cước, có thể bị trục xuất về Sài Gòn.
Một năm học tại trường, tôi nhận lãnh được nhiều ân tứ thiêng liêng qua những giờ học Lời Chúa và trong những lúc tâm giao riêng tư với Ngài. Lòng tôi nóng nảy về số phận hư mất của đồng bào nên vào những ngày thứ Bảy là ngày chứng đạo, tôi rất vui thích đi ra làm chứng về Danh của Chúa cho họ.
Sau niên học, tôi trở về nhà cách vui vẻ với tâm tánh mới, sốt sắng góp phần hầu việc Chúa ít nhiều với Hội Thánh để tập sự trong mấy tháng hè. Kế đó, lại tới kỳ nhập trường năm thứ Hai. Tôi lên Sài Gòn để đón xe lửa ra Đà Nẵng, thì sự khó khăn lại tái diễn như năm trước. Song cảm tạ Chúa là Đấng hôm qua và ngày nay không hề thay đổi (Hê-bơ-rơ 13: 8) nên một lần nữa tôi cũng được Chúa đưa đường đến Đà Nẵng cách diệu kỳ!
NIÊN HỌC ĐẦY THỬ THÁCH VÌ THỜI CUỘC
Niên học này nhằm năm 1944-1945. Máy bay Đồng minh Mỹ – Anh – Pháp, v.v… thường đến dội bom trên quân đội Nhật, và quân đội Nhật lại đóng binh quá gần Trường Kinh Thánh. Nếu những cuộc dội bom chỉ sai trật một đôi chút thì nhà trường có thể bị lâm nạn! Có hôm chúng tôi phải chạy xuống chạy lên hầm trú ẩn năm, bảy lần. Tinh thần ai nấy đều bị xao động! Sự học phải mất nhiều thì giờ hơn, có khi phải học thêm đến khuya mới xong bài.
Tôi còn nhớ một đêm kia, nhà binh Nhật đóng bên kia đường bị dội bom. Thình lình nghe bom nổ, tôi lật đật mở cửa để xuống hầm, nhưng tôi làm kẹt cứng chìa khoá vào ống khoá, vặn tới vặn lui không được nên không mở cửa được. Tôi nghe bên ngoài tiếng miểng bom văng rào rào! Đến khi bình tĩnh, tôi mở được cửa, thì tiếng bom nổ cũng dứt. Sáng hôm sau, tôi lượm trước cửa và phía vách phòng độ chừng mấy chục mảnh bom lớn nhỏ. Cám ơn Chúa, nếu lúc bom đang nổ liên tiếp mà tôi chạy ra được như thường lệ, và nếu Chúa không khiến cho chìa khoá bị kẹt, chắc tôi không thể nào tránh khỏi những mảnh bom!
Một lần kia tôi và bạn tôi, Thầy Sơn (sau nầy là Mục sư Nguyễn Thành Sơn) đang đi chứng đạo, vừa đi ngang cổng nha binh Nhật thì nghe tiếng còi báo động. Chúng tôi mau lẹ chạy ra đồng trống phía sau hè khu nhà binh, nằm xuống bên lề đường chịu cho hàng chục chiếc máy bay Đồng minh bắn phá hàng giờ rất khủng khiếp! Song chúng tôi nhờ ơn Chúa gìn giữ nên được bình an vô sự. Cám tạ ơn Chúa!
Một lần khác, tôi định đi thăm một vị Giáo sư ở gần nhà ga lớn. Khi đi ngang qua nhà ga thì nghe tiếng còi báo động. Tôi không muốn xuống hầm núp gần nhà ga, sợ nguy hiểm hơn nên chạy thẳng tới. Lúc chạy được vài trăm thước, tôi thấy mấy chiếc máy bay sà xuống và tiếp theo, bốn tiếng nổ dữ dội! Nhà ga đúc ba từng lầu rất kiên cố chỉ còn là một đóng gạch vụn khổng lồ, các cửa sổ và gạch đá văng gần đến chỗ tôi nằm, nhưng bởi ơn Chúa gìn giữ nên tôi chẳng bị chút thương tích nào. Cảm tạ ơn Chúa.
ƠN CHÚA DỰ BỊ MỘT CHUYẾN XE LỬA VỀ SÀI GÒN
Niên học nầy Trường phải tổ chức lễ Bãi trường trước gần hai tháng, vì lẽ quân đội Nhật đảo chánh nhà cầm quyền Pháp. Nhà trường không thể tìm đâu để có thể mua được gạo, và nhà cầm quyền Nhật cũng không chấp thuận việc phân phối cho nên Trường Kinh Thánh đành bãi trường sớm. Về Sài Gòn bằng cách nào? Đó là câu hỏi đầy lo lắng của ban Giáo sư cũng như các sinh viên. Vì xe lửa đã bị dội bom hư nhiều chiếc, còn lại bao nhiêu không đủ cho nhà binh Nhật sử dụng. Cụ Đốc học Ông Văn Huyên cố gắng xin phép nhà binh Nhật cho đi nhờ mỗi chuyến vài người. Họ đi chuyến thứ nhất hai người, song chỉ đến Nha Trang mà thôi (Nha Trang cách Sài Gòn độ 400 cây số). Cụ Đốc học hỏi ai tình nguyện chịu đi về trước. Tôi và Thầy Sơn giơ tay tình nguyện, biết rằng chuyến đi nầy cũng không kém phần nguy hiểm, vì mấy chuyến xe lửa trước đã bị dội bom!
Giáo sư và các bạn đưa chúng tôi lên xe, lòng đầy e ngại cho cuộc phiêu lưu của chúng tôi. Thật chuyến xe nầy phải ngừng lại mấy lần trước khi tới Nha Trang để cho người chạy xuống rừng trú ẩn. Khi đến Nha Trang, hơi bỡ ngỡ vì chổ lạ, chúng tôi còn ngồi trên xe chưa biết tính sao. Tôi cúi đầu cầu nguyện, xin Chúa chỉ dẫn và giúp đỡ cho cuộc hành trình. Độ 10 phút sau, nhân viên hoả xa đến hỏi: “Hai Thầy có muốn về Sài Gòn không? Vì xe nầy đưa vị Tư lịnh Nhật vô Sài Gòn, hai Thầy được đi khỏi trả tiền”. Nghe vậy lòng chúng tôi khoan khoái, nhẹ nhàng, cảm thấy như Chúa dành chuyến xe lửa đặc biệt nầy để đưa chúng tôi về Sài Gòn chớ chẳng phải đưa vị Tư lịnh Nhật.
ƠN CHÚA DỰ BỊ TIỀN ĐỂ TRẢ HỌC PHÍ CHO TRƯỜNG KINH THÁNH.
Nhớ lại, khoá học năm 1944-45, niên học phí phải trả cho Trường Kinh Thánh là 90 đồng. Đã gần đến ngày nhập trường năm thứ Hai mà tôi chưa lo được đủ học phí. (Vì trong xứ lúc bấy giờ nền kinh tế cực kỳ khủng hoảng! Ngoài miền Bắc nhiều người bị chết đói, còn trong Nam chưa đến nỗi phải chết đói nhưng cũng bị “ngất ngư”. Có người đói rách lang thang, mặc bao bố!)
Lòng tôi hết sức lo lắng và ngày đêm cầu nguyện, xin Chúa lo liệu cho. Thật ơn Chúa rất diệu kỳ! Chính Ngài là Đức Giê-hô-va Di-rê (nghĩa là Chúa Sắm sẵn). Còn vài ngày trước khi tôi từ giã Hội Thánh để lên đường đến Trường Kinh Thánh thì Ông Nguyễn Văn Sâm, người Tín hữu có ơn Chúa trong Hội Thánh mời tôi về nhà rồi vào trong lấy ra một ống tre lớn, lắc qua lắc lại nghe rổn rảng vì có bạc cắc ở bên trong và nói: “Đây là tiền mà cả gia quyến chúng tôi bỏ vào gần một năm rồi, từ lúc Thầy Xuân bắt đầu đi học năm thứ Nhất. Chúng tôi định ý giúp Thầy năm nay để tiếp tục học. Được bao nhiêu sẽ giúp cho Thầy Xuân hết.” Đoạn, Ông ta chẻ ống ra, đếm được gần một trăm rồi trao hết cho tôi. Tôi hết sức cảm ơn người có lòng hảo tâm và cũng cảm tạ ơn Chúa đã khiến người giúp tôi lúc có cần. Nhờ số tiền nầy, tôi có thể đóng trọn học phí cho niên khoá 1944-1945. Nếu trái lại, không có số tiền này, tôi có thể bị dở dang năm học ấy và nếu như vậy, tương lai tôi sẽ không biết phải ra như thể nào? Thật cảm ơn Chúa. Ngài là Đức Giê-hô-va “Di-rê”(Sáng 22:14).
CHƯƠNG BA
ƠN CHÚA DẪN DẮT VÀ GIẢI CỨU KHI LẬP GIA ĐÌNH.
Trước ngày bãi trường, cụ mục sư Ông Văn Huyên là vị đốc học khả kính, giới thiệu cho tôi một nữ sinh viên Trường Kinh Thánh, là cô Phan Thị Hợi, em của Mục sư Phan Văn Hiệu, người có tâm chí hầu việc chúa, quê ở Bến Cát. Sau khi bãi trường trở về, tôi liền đến Bến Cát tìm gia đình cô và xin giao thiệp. Sau đó, chúng tôi cầu nguyện nhờ ơn Chúa sắp đặt để đi đến hôn nhân.
ƠN CHÚA CỨU KHỎI BỊ KẺ CƯỚP DỌC ĐƯỜNG.
Sau ngày lễ Đính hôn, từ Bến Cát trở về Cao Lãnh, tôi muốn đi bằng xe đạp để có dịp ghé thăm những Hội Thánh nằm gần bên quốc lộ. Ra đi chừng hơn vài cây số, ruột xe bị xẹp. Tôi dẫn xe đến chợ nhờ thợ vá lại. Đoạn, tiếp tục đi được vài cây số, ruột xe lại bị xẹp một lần nữa. Tôi mang xe trở lại chợ nhờ thợ vá lại, tôi năn nỉ anh thợ ráng vá dùm cho kĩ vì tôi đi đường xa. Lần này được tốt. Khi đi được độ 10 cây số, tôi thấy đồng bào ngồi hai bên đường khá đông, kẻ khóc người la. Hỏi thăm mới biết ăn cướp đón người tại đây từ sáng lấy hết tiền bạc, vòng vàng của người đi qua lại và chúng vừa mới rút trốn vô rừng. Thật cảm tạ ơn Chúa! Nếu xe đạp của tôi không bị xẹp hai lần thì đã bị lọt ngay vào giờ bọn cướp đang đón đường. Thấy đi xe đạp bất an, nên tôi trở lại gởi xe và đi xe đò về Cao Lãnh.
ƠN CHÚA CHỈ DẪN DỜI LẠI NGÀY ĐÁM CƯỚI SỚM HƠN MỚI ĐƯỢC THÀNH.
Sau lễ đính hôn, tôi hiệp với Ông Bà nhạc gia định ngày lễ Hôn phối nằm ngày 4 tháng chín, năm 1945. Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời là Đấng biết trước những hoàn cảnh sẽ xảy ra trong tương lai của chúng tôi có thể khiến cho cuộc đời chúng tôi mờ mịt, cách trở, nên đã khiến cho chúng tôi phải dời đám cưới lại ngày khác. Trước giờ từ giã Ông Bà nhạc gia, Chúa đã hướng dẫn tôi định lại ngày lễ thành hôn, nhằm ngày 28 tháng tám, năm 1945, sớm hơn một tuần. Sự thật thì tôi cũng không biết vì sao lại dời ngày như vậy cho đến cách ngày đám cưới vài ngày thì tôi mới biết có bàn tay từ ái của Chúa chỉ dẫn việc này, đúng theo sự biết trước của Ngài. Như tác giả Châm ngôn đã nói: “Lòng người toan định đường lối mình, song Đức Chúa Trời chỉ dẫn các bước của Người”. (Châm 16:9)
Gần đến ngày cưới, gia quyến tôi đi bằng ghe, còn tôi đi xe đò, định ý thuận đường ghé thăm em tôi là vợ Mục sư Huỳnh Văn Thiện ở Lộc Thuận vài ngày. Kế đó, đến ngày 26/8/45, trước ngày đám cưới hai ngày, tôi từ giã em tôi ra đi. Đoạn đường này phải đi bộ vì lúc bấy giờ không có loại xe nào lưu thông được. Dọc đường không biết là bao nhiêu lần bị Việt Minh xét hỏi giấy tờ, cùng lục soát khắp người. Tuy vậy, tôi cũng đến được bến Bắc Rạch Miễu lúc 2 giờ chiều. Khi tới nơi thì chiếc Phà đã mở dây bắt đầu rời bến, nhưng tôi nhảy xuống vừa kịp lúc. Nếu đến trể chừng 30 giây chắc tôi không dám nhảy xuống và sẽ không bao giờ lên được Sài gòn.
Khi qua sông, tôi đến nhà ga xe lửa Mỹ Tho để mua vé đi Sài Gòn, lúc bấy giờ mới thấy có độ 200 người đang đứng xếp hàng để chờ mua vé, mà nhà binh Nhật cho hay chỉ cho 30 người đi thôi, và chuyến xe này cũng là chuyến xe chót đi Sài Gòn (vì tình hình chiến tranh hết sức căng thẳng tại Sài Gòn giữa Việt Minh và Pháp). Từ đây về sau nhà binh Nhật cũng như Việt Minh đều không cho xe lửa lên Sài Gòn. Hốt hoảng, tôi kêu xin Chúa giúp cách nào để tôi có thể đến kịp ngày đám cưới. Nếu đi chuyến này không được thì không còn cách gì khác, vì xe đò mấy tuần rồi cũng không chạy được. Tôi liền đi từ từ đến những người đứng phía hàng đầu giả vờ hỏi thăm chuyện, rồi chen vô đứng xếp hàng, nhưng bị la ó đuổi ra! Không thất vọng, tôi lui lại vài bước. Kế có lệnh cho vào mua vé và lúc đó cửa sắt cũng vừa mở ra, tôi chen vô được với những người phía trước. Khoảng chừng 30 người vào thì cửa sắt đóng lại, bỏ gần 200 người đứng phía ngoài ngó vào đầy vẻ thất vọng! Cảm tạ ơn Chúa, thế là tôi lên được Sài Gòn dưới sự dẫn dắt của Chúa qua mỗi đoạn đường, đúng từng giây, từng phút mà tôi không ngờ trước được.
Nghỉ đêm tại Sài Gòn, sáng ngày hôm sau tôi lên Bến Cát, và ngày kế đó là ngày Chúa Nhật, 28/8/1945, đúng như chương trình đã dự định để chịu lễ Hôn phối. Buổi lễ có cụ Chủ nhiệm Mục sư Trần Xuân Hỷ hành lễ và cụ Mục sư Nguyễn Văn Trình giảng dạy. Sau đám cưới gia quyến tôi trở về Cao Lãnh, còn tôi dự định ở lại thăm bà con vài ngày rồi sẽ về sau.
Cám ơn Chúa, đúng như sự biết trước của Ngài, sau đám cưới vài ngày là chiến tranh bùng nổ dữ dội tại Sài Gòn! Từ đấy xe cộ cũng như mọi người khó lưu thông được từ địa phương này qua địa phương khác, và chiến tranh cứ tiếp diễn, đa số người phải di cư vô hậu phương càng ngày càng xa… Cám ơn Chúa, trước bối cảnh đã xảy ra, nếu đám cưới không tổ chức sớm hơn một tuần và tôi chỉ trễ một chuyến phà, một chuyến xe lửa, chắc cuộc đời chúng tôi không biết bị trôi lạc vào phương trời nào, hoặc sống chết ra sao, một tương lai vô định, và vợ chồng không hẹn ngày hội ngộ. Cám tạ ơn Chúa chúng tôi biết mình là những tôi tớ hèn mọn của Đức Chúa Trời, chúng tôi làm gì cũng cầu xin nhờ ơn Chúa sắp đặt và chỉ dẫn nên mới được phước và may mắn. Như sách Châm ngôn dạy: “Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, thì Ngài sẽ dẫn các nẻo của con” (Châm ngôn 3:6)
CHÚA CỨU KHỎI BỊ BẮT NHỜ VÀNH XE BỊ VẸO.
Lúc bấy giờ tuy có chiến tranh tại Sài Gòn, nhưng ở Bến Cát vẫn còn bình yên, dưới sự kiểm soát của quân đội Nhật. Buổi sáng kia, tôi và các bạn đi làm việc bằng xe đạp (tôi mới bị ép lãnh phận sự làm thư ký phụ cho Đoàn Vệ Quốc Quân gồm 117 người, tác chiến bằng tầm vông vạc nhọn, dưới quyền điều khiển của anh rễ tôi là Trịnh Phát Phước). Khi đang đi gần tới doanh trại binh Nhật còn cách chừng 200 thước, bỗng gặp một người quen kêu thình lình, tôi liền nhảy xuống xe thì vành xe đạp bị vẹo (trước đó một tháng, vành xe đạp của tôi bị xe bò cán vẹo, tôi sửa lại để đi tạm và hôm nay do chỗ hư cũ đó nên vành xe bị vẹo trở lại).
Sau đó tôi dẫn xe trở về nhà. Một lúc sau, nghe tin các người cùng đi làm việc với tôi khi sáng, lúc ngang qua trước cửa nhà binh Nhật thì bị bắt tra khảo và chở xuống Sài Gòn giao cho quân đội Pháp giam cầm. Ít lâu sau, nghe tin những người ấy dường như bị chết hết vì chỗ giam quá chật hẹp!
Cảm tạ ơn Chúa, Ngài đã sắp đặt sự cứu giúp từ trước, khiến cho vành xe đạp của tôi bị vẹo. Và hơn thế nữa, Chúa dẫn một người đến đón tôi đúng chỗ, kịp thời cứu tôi thoát nạn. Thật Chúa đã bao bọc yêu thương và gìn giữ chúng tôi “Khác nào như Cha thuong xót con cái mình”. Dầu mẹ có lúc quên con mình cho bú, nhưng Chúa không bao giờ quên con cái Ngài (Thi Thiên 103:13. Ê sai 49:15)
CHÚA KHIẾN TÔI CÓ MẤY MỤT GHẺ NÊN KHỎI BỊ NHẬT BẮT
Nhớ lại sau đó mấy ngày, trong một cuộc lùng kiếm Việt minh (lúc bấy giờ Nhật nghe theo lời Pháp và Anh nên kiếm bắt Việt minh) những lính Nhật đến vây nhà chúng tôi vào lúc 12 giờ khuya, kêu mọi người thức dậy. Nhận thấy sự nguy khốn xảy đến, chúng tôi cúi đầu cầu nguyện, xin Chúa giải cứu. Tôi đốt đèn và mở cửa. Người lính Nhật kêu tôi đi ra. Tôi giả đau và đưa hai bàn tay có mấy mụt ghẻ thoa thuốc đỏ đen cho xem, rên rỉ nói: “Tôi đang đau và tôi không phải là Việt minh. Việt minh thì mặc đồ đen, ở rừng, còn tôi mặc đồ trắng, ở nhà ngủ, đâu có phải là Việt minh? Người Nhật nhìn tôi một chút như hiểu được lời tôi nói có lý và thấy tôi có vẻ đau đón, động lòng nên bỏ mà ra đi. Thật cảm tạ ơn Chúa, quyền năng Chúa thật lớn lao, không việc chi mà Ngài chẳng làm được. Song muốn cứu con cái của Ngài thì Ngài cũng áp dụng theo tánh lý nhơn đạo của người để cứu người. Ấy là mấy mụt ghẻ vừa mọc lên vài ngày trước trên tay, có bôi thuốc đen đỏ, khiến cho nguời Nhật động lòng thương xót, không muốn bắt.
KHỎI BỊ BẮT NHỜ CHÚA LÀM CHO TÊN LÍNH NHẬT THƯƠNG HOẶC SỢ!…
Tuần lễ sau, những người lính Nhật đi ruồng bố ghé vào nhà tôi thình lình lúc 7 giờ tối, không trốn kịp như những lần khác. Một tên lính Nhật chĩa mũi súng vào cửa sổ kêu tôi đi ra. Tôi còn đang đứng đó nói rằng: “Tôi không phải là Việt minh! Đoạn, người Nhật bước vô chĩa súng vào bụng và dẫn tôi ra phía sau chỉ sợi dây cột võng, bảo tôi mở ra, có ý dung dây đó để trói tôi lại. Tôi cố ý mở dây cách chậm chạp, miệng cầu xin Chúa giải cứu: “Chúa ôi! Ngài là Đấng quyền phép lớn lao, xin thi hành phép lạ cứu con trong giờ này.”
Đồng thời, vợ tôi cũng vào phòng cầu nguyện, xin cánh tay đầy quyền năng của Chúa can thiệp. Sự mở dây cũng hơi chậm. Các lính Nhật sang nhà khác bắt anh vợ tôi và vài người nữa dẫn đi càng lúc càng xa. Bấy giờ chỉ còn lại một tên lính Nhật đang chĩa súng vào lưng tôi để chờ mở dây. Nó nghe tiếng đồng bọn kêu ở xa xa. Phần thì lúc ấy trời cũng đã tối, tên lính Nhật ngó tới, ngó lui (có lẽ hắn suy nghĩ, chỉ có một mình khó trói được tôi, vã lại thấy tôi cũng là một thanh niên, biết đâu tôi có võ nghệ). Thình lình hắn lui ra chừng 4 thước, mũi súng cũng còn chĩa ngay về phái tôi. Đoạn, mau lẹ xây lưng lại bỏ tôi mà đi theo đồng bọn.
Thật cảm tạ ơn thương xót lớn lao của Chúa. Ngài có nhậm lời cầu nguyện nên trong khi sự bị bắt kể như cầm chắc, thì quyền phép Chúa can thiệp và giải cứu tôi thoát nạn cách lạ lùng! Như Đa vít đã nói: “Chúa binh vực tôi; loài người làm chi tôi được. Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào, vì Chúa ở cùng tôi. Đương khi đi qua trũng khóc lóc, họ làm cho trũng ấy trở nên nơi có mạch. Họ đi tới sức lực lần lần thêm.” Thi Thiên 23:4, 84:6
KHỎI BỊ BẮT NHỜ CHÚA LÀM CHO NHỮNG TÊN LÍNH NHẬT KHÔNG THẤY.
Một lần khác, cũng có một đám quân Nhật đến vây xóm. Nghe tin, chúng tôi gom góp đồ tế nhuyễn vào một gói lớn, định ôm chạy ra rừng trốn, nhưng vừa chạy ra tới bờ chuối, cách nhà độ 12 thước, thì có chừng 20 tên lính Nhật ào vô tới nhà. Chúng tôi hốt hoảng ngồi xuống, ngó tới ngó lui chung quanh quá trống trải, biết kỳ này khó bề trốn thoát như những lần trước. Chúng tôi cúi đầu cầu nguyện, xin một phép lạ của Chúa làm cách nào cho người Nhật mù lòa, để chúng đừng thấy như ngày xưa Chúa đã làm cho đạo quân Syri bị mù lòa giữa ban ngày. Độ 10 phút sau, những tên lính Nhật đi ra khỏi nhà, ngay phía chúng tôi đang ngồi trốn. Thấy vậy, chúng tôi dường như không dám thở ! Nhưng cảm tạ ơn Chúa. Họ quẹo ra phía trước, chỉ cách chúng tôi chừng 7 thước rổi đi luôn.
Khi họ đi xa xa. Tôi nói hơi lớn tiếng: “Chúng nó đi xa rồi, mình vô.” Đoạn, chúng tôi ôm gói đồ lớn đứng dậy. Vừa đứng lên, thì thấy 2 tên lính Nhật còn sót lại trong nhà bước ra ngay phía sau chổ chúng tôi đang đứng (có lẽ chúng ra trể vì muốn lục kiếm đồ đạc để lấy). Như mất hồn, Chúng tôi cứ đứng sững ở đó! Nhắm mắt thầm nguyện, xin Chúa giải thoát. Hai tên lính Nhật vừa đi vừa nói chuyện, gần sát bên chúng tôi đang đứng, rồi quẹo ra lộ đi luôn!
Chúng tôi thật lớn tiếng cảm tạ ơn Chúa có nhậm lời cầu nguyện, nên Ngài có thi hành sự giải cứu thật lạ lùng, khiến cho những người lính Nhật giữa ban ngày không ngó thấy, hoặc là Chúa bắt buộc chúng nó ngó về phía khác để bảo vệ chúng tôi được an toàn. Như tác giả Thi Thiên đã từng trãi nói: “Trong cơn gian truân, hãy kêu cầu cùng Chúa, Ngài bèn giải cứu khỏi đều gian nan. Đấng gìn giữ không hề buồn ngủ. Chúa phán: Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu ta, họ còn nói ta đã nghe rồi” (Thi Thiên 107:6, Êsai 65:24)
CHƯƠNG BỐN
CHÚA DẪN TÔI RA KHỎI BẾN CÁT ĐẦY BIẾN LOẠN
Chiến tranh phát khởi tại Sài Gòn rồi dần dần cũng tràn đến Bến Cát. Đa số đồng bào tản cư đi nơi khác. Chúng tôi cầu xin Chúa chỉ dẫn, vì cảm thấy tản cư rất là nguy hiểm, có nhiều nổi khổ sở và chết chóc; còn ở lại nhà thì bị nhà Binh Nhật – Pháp có thể đến bắt bất cứ lúc nào vì không thể nào trốn tránh mãi được. Hơn nữa, chúng tôi cũng lo sợ Việt minh nghi ngờ vì tôi không chịu rút theo Đoàn Vệ Quốc quân và vợ tôi cũng không chịu nhận chức chủ tịch phụ nữ mà họ đã hết sức nài ép. Sau ít ngày cầu nguyện, chúng tôi cảm thấy lòng bình an nên quyết định nhờ cậy Chúa, dầu sống thác như thế nào cũng ở lại nhà chứ không tản cư. Nhưng dưới lệnh của Việt minh, cả mọi người trong làng đều tuân hành di tản. Gia đình chúng tôi là gia đình duy nhất trong làng không chịu tản cư.
Khi quân đội Pháp đến Bến Cát và đoàn xe tăng chạy ngang qua trước cửa nhà, chúng tôi ra trước cửa để xem đoàn xe chớ chẳng sợ chi, còn về phần đồng bào, sau vài tháng tản cư thì lần lượt trở về làng thuật lại không biết bao nhiêu cảnh đau khổ và chết chóc, không bút mực nào mô tả cho hết. Có người bị chết, còn người sống sót lại mang nhiều chứng bệnh vào thân. Họ nói: “Thầy Cô Xuân và Ông Bà cụ có phước quá!”
Nghe vậy, chúng tôi thêm lòng cảm tạ ơn Chúa, là Đấng có soi sáng giúp chúng tôi có quyết định đúng trước những sự kiện quan trọng mà chúng tôi không biết tương lai sẽ ra như thế nào. Chúng tôi chỉ biết phó thác mọi việc cho Chúa mà thôi. Như tác giả Châm ngôn đã dạy: “Hãy hết lòng tin cậy Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con. Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con. Vì hễ ai tìm được Chúa thì được sống, và sẽ được ơn trước mặt Đức Giê-Hô-Va.” (Châm ngôn 3:5, 8:35)
CHÚA KHIẾN CHO LỰU ĐẠN KHÔNG NỔ
Nhớ lại buổi sáng kia, chúng tôi đang đứng bên bờ ruộng gần bên nhà. Thấy một đoàn lính Việt – Pháp chừng 30 người đi dọc theo quốc lộ. Thình lình họ đứng lại và sau đó, hết thảy những người ở xa gần đều nằm sát xuống bên lề đường. Một người lấy một trái lựu đạn ra rút chốt và ném nó gần chỗ chúng tôi đang đứng. Chúng tôi đang bỡ ngỡ và chưa hiểu chuyện gì, cứ đứng đó, song cám ơn Chúa là trái lựu đạn chỉ xì khói mà không nổ. Nếu lựu đạn nổ thì chúng tôi không biết mình sẽ ra như thế nào, vì trái lựu đạn chỉ rơi cách chúng tôi chừng 20 thước. Khi trở vô nhà, chúng tôi ngồi suy nghĩ lại sự kiện đã xảy ra vì lý do gì? Khó hiểu! Nhưng đều chúng tôi biết là những anh quân nhân ác ôn này đều ở trong làng, ra làm việc cho Pháp. Họ đều biết anh rể tôi là Trịnh Phát Phước, người chỉ huy Đoàn Vệ quốc quân trong quận Bến cát đang ở trong rừng tác chiến, nên họ có lẽ muốn hại chúng tôi.
Nhưng cảm tạ Đức Chúa Trời, Chúa không phải là không biết việc gì đang xảy ra, nên khiến cho lựu đạn không nổ để cứu chúng tôi khỏi nạn.
Như tác giả Đa vít đã nói: “Người sẽ chẳng sợ hoặc kinh khiếp ban đêm, hoặc tên bay ban ngày… hay là sự tàn diệt phá hoại đương lúc trưa. Song tai họa sẽ chẳng đến gần ngươi… bởi vì ngươi đã nhở Đức Chúa Giê-Hô-Va làm nơi nương náo mình” ( Thi Thiên 91:5, 6:9)
CHÚA CỨU KHỎI SÚNG ĐẠN VÀ TÊN LƯU MANH MUỐN CƯỚP
Ít ngày sau đó, một tên lính Nhật say rượu đi phá xóm phá làng và ghé vào nhà thờ Tin Lành dùng gươm đâm lủng nát cái trống và uy hiếp vài người trong nhà thờ bằng gươm, vì nó cho nhà thờ này là của Mỹ nên oán ghét. Thật là quả báo nhản tiền. Vài ngày sau đó, lúc 8 giờ tối, cũng chính tên lính ấy đang bị say một lần nữa và lúc hắn đang đi xuệnh xoạng, tay chân quơ múa gần cửa nhà thờ thì bị một lính Việt minh bắn chết cách nhà chúng tôi chừng vài trăm thước. Sau đó, có tiếng đồng bào hốt hoảng kêu la: “Chạy trốn cho mau vì tên lính Nhật bị bắn chết nên Nhật trả thù giết hết xóm”. Tiếp theo nghe tiếng súng bắn dữ dội, hốt hoảng, chúng tôi xách một va li và vài gói đồ (lúc bấy giờ chúng tôi đã sắp đặt đồ vào va li sẵn sàng) chạy ra phía rừng dưới lằn đạn nghe rào rào trên đầu thật khủng khiếp!
Đang khi chúng tôi xách va li và đồ đạc chạy vào rừng trốn thì thình lình gặp một tên côn đồ có súng hai nòng. Chúng tôi rất lo sợ vì biết hắn ta có ý muốn cướp đồ vì biết chúng tôi có tiền và đồ nữ trang. Nhưng nó còn phân vân vì vợ tôi biết mặt và tên nó, biết nó là một tên côn đồ mà hôm nay lại có súng. Hơn nữa, chúng tôi đang chạy trốn giữa rừng vào ban đêm, dưới lằn đạn của hàng trăm tên lính Nhật, chúng tôi sợ nó có thể bắn giết rồi đổ thừa cho lính Nhật. Chúng tôi thầm nguyện, xin cánh tay Chúa giải cứu. Đoạn, chúng tôi đứng dậy chạy sâu vô rừng, cố ý trốn cho khỏi tên bất lương, mặc dầu tiếng súng vẫn còn nổ liên tiếp cách dữ dội và tiếng đạn bay nghe rào rào trên cây. Nhưng tên côn đồ ấy vẫn bám sát chúng tôi. Lúc bấy giờ chúng tôi sợ tên cướp hơn sợ đạn nên chạy quẹo ra phía bìa rừng và cảm tạ ơn Chúa, lúc ấy Nhật cũng thôi bắn, nên chúng tôi đi thẳng về nhà, bỏ tên ác ôn lại ở đó nhìn theo chúng tôi như có nhiều sự suy nghĩ… Tạ ơn Chúa, Ngài có bảo vệ chúng tôi, nên khiến tên côn đồ có sự lưỡng lự không dám ra tay để làm hại chúng tôi là những tôi tớ hèn mọn của Chúa. (Có lẽ vài tháng sau, tên côn đồ này trở lại cướp nhà Ông bà Nhạc gia tôi 6 lần, nhưng lúc đó chúng tôi đã đi xuống Thủ Đức).
CHÚA SAI NGƯỜI BÁO TIN LÚC 12 GIỜ KHUYA NÊN KHỎI BỊ NẠN
Khi chúng tôi trở về nhà, liền bàn tính phải tản cư vô rừng vài ngày để xem tình hình sẽ ra như thế nào? Đoạn, chúng tôi gom góp đồ đạc thêm ít nhiều và dọn đi liền nội trong đêm đó xuống bờ suối cách nhà chừng 500 thước, cất lên một cái trại cùng với đồng bào trong xóm chừng 10 người, ở đấy chừng một tuần cũng tạm yên.
Rồi một đêm kia, lối 12 giờ khuya, có tiềng một người đi bên bờ suối kêu: “Anh em ơi! Đêm nay Pháp-Nhật đi ruồng bố tại đây.”
Chúng tôi bàn luận: “Dầu mình chẳng làm gì, nhưng hễ trốn ở rừng, nếu rủi bị nhà binh Pháp-Nhật bắt thì không thế nào tự binh vực mình được, hoặc có thể bị bắn chết lúc họ bao vây. Thà ở tại nhà mà bị bắt, cũng dễ van nài hơn.” Nghĩ như vậy nên chúng tôi dọn đồ về nhà liền nội trong giờ đó. Một lát sau, có tiếng súng nổ ở bờ suối và lửa từ những căn trại bốc lên cháy. Đồng bào còn trốn ở suối, kẻ bị bắt, người bị bắn chết. Cám ơn Chúa, chúng tôi được Chúa phù hộ, gìn giữ và khiến cho có người đến kêu lúc đêm khuya nên mới thoát nạn như Chúa đã hứa cùng Gia cốp: “Nầy ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó, và ta sẽ không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi Ta sẽ làm xong những đều Ta đã hứa cùng Ngươi.” (Sáng 28:15).
CHÚA RÚT TÔI KHỎI TRŨNG BÓNG CHẾT!
Lúc bấy giờ, vợ tôi đã có thai được 8 tháng mà phải chạy tản cư đây đó, song nhờ ơn Chúa ban ơn nên được mạnh khỏe. Cám ơn Chúa, Ngài là Đấng biết trước tất cả mọi sự nguy hiểm của chiến họa cũng như những nạn cướp bóc. Mặc dầu Ngài là Đấng quyền phép, chỉ “Phán một tiếng là biển cạn”, song, muốn rút chúng tôi ta khỏi trũng bóng chết để sinh mạng được an toàn, cũng khó giúp cho chúng tôi biết thế nào là ý Chúa để vâng theo. Vả lại, vợ tôi đã có thai được 8 tháng, chỉ còn hơn 1 tháng nữa là tới kỳ sinh nở, người rất cần có bà Nhạc gia tôi giúp đỡ. Hơn nữa, lúc bấy giờ xe cộ cũng như người khó đi lại, vì Việt minh cấm di chuyển nên ai ở đâu là cứ ở đấy, ít ai nghĩ đến việc đi xa, nếu trái lệnh mà rủi bị bắt thì bị tình nghi, có thể bị giết chết oan mạng. Cảm tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài biết địa phương này sắp xảy ra chiến họa và loạn lạc, nên Chúa phải can thiệp cách nào cho có hiệu lực để đem chúng tôi ra khỏi nơi biến loạn!
Chúa bắt đầu khiến cho sự rắc rối xảy ra ngay tại gia đình., Ấy là vợ tôi có người chị dâu bấy lâu vẫn thương yêu nhau, ít khi nào cãi cọ. Rồi một ngày kia có một vài việc không đáng kể nhưng người chị dâu lại muốn kình chống và luôn có thái độ bất mãn và sẵn sàng muốn gây gỗ!
Để tránh sự va chạm, chúng tôi định ý rời khỏi gia đình đi xuống Thủ Đức (Thủ Đức cách Bến cát độ 60 cây số). Nhưng chúng tôi chưa biết sẽ đi bằng cách nào? Vì lúc bấy giờ, ngoài xe nhà binh thì không có loại xe nào lưu thông được.
Chúng tôi tha thiết cầu xin Chúa sắp đặt cách nào cho có một vài chuyến xe để đi. Ông bà Nhạc gia kêu tôi đến khuyên: “Vợ con gần ngày sinh nở, ở đây đủ tiện nghi, gạo lúa đầy bồ, con xuống Thủ Đức, không nghe người ta đồn ở dưới thiên hạ bị đói sao?” Lời khuyên của ông bà Nhạc gia làm cho tôi cũng hơi lo ngại, nhưng dường như có một năng lực gì mạnh mẽ thúc giục nên tôi quyết định đi chứ không chịu thay đổi ý định. Vợ tôi dầu hơi lưỡng lự nhưng sau vài ngày cầu nguyện để biết ý Chúa nên cũng đồng ý.
Cảm tạ ơn Chúa thật diệu kỳ! Sự cứu giúp của Ngài thật đúng lúc, vài ngày sau, có một chiếc xe chở đồ từ Sài Gòn chạy lên ngang qua cửa. Chúng tôi mừng quá! Liền sửa soạn đồ đạc, quần áo xếp vào các va li đem ra trước cửa sẵn sàng để chờ đón xe quá giang. Chiếc xe chở đồ chạy trở lại vào lúc 4 giờ chiều, nội trong ngày. Lúc thấy xe còn đằng xa, tôi ra giữa lộ giăng hai tay ra đón. Chiếc xe bớt tốc lực rồi từ từ ngừng lại. Chúng tôi liền hỏi xin quá giang xuống Thủ Đức. Chúa cho người tài xế vui vẻ bằng lòng. Chúng tôi leo lên xe lòng vui buồn lẫn lộn. Chiếc xe chạy đến Thủ Đức tuy bị trễ, vì phải trải qua nhiều trạm xét gắt gao, nhưng mọi việc đều bình yên! Cảm tạ ơn Chúa!
Chúng tôi tạm trú tại nhà thờ Thủ Đức được vài tuần. Chúng tôi nhận được thơ của ông bà Nhạc gia cho hay: Chiếc xe hơi mà chúng tôi quá giang xuống Thủ Đức, không còn lên Bến cát nữa, vì đã nghe tin bị Việt minh đón đường đốt ở Thủ Dầu Một (thế là chiếc xe hơi chở đồ chỉ đi được lên Bến Cát có một chuyến rồi bị đốt, từ đó về sau không còn thấy xe nào di chuyển lên nữa trong một thời gian khá lâu). Và sau đó ít tuần, chúng tôi lại nhận được tin bọn cướp phá nhà Ông bà Nhạc gia tôi 6 lần. Chúng bắt hết bò, ngựa và lấy hết đồ đạc không chừa lại món gì đáng giá, thậm chí cuốn Kinh Thánh chúng cũng lấy đi. Mỗi lần vào nhà lấy đồ chúng bắt ông bà trói lại hành hạ. Còn chiến tranh cũng tràn đến tại đó rất dữ dội! Ông bà Nhạc gia tôi và đồng bào trong làng phải theo lệnh Nhà cầm quyền địa phương dỡ nhà xuống bỏ đó, tản cư ra chợ. Trong làng có nhiều căn nhà đồ sộ nhưng có cái đã bị cháy, cái còn lại phải dở xuống cho hai bên lộ được trống trải. Cả làng đều vắng bóng người qua lại.
Chúng tôi nghĩ lại mà tạ ơn Đức Chúa Trời Đấng rất lớn lao. Ngài đã yêu thương và bảo vệ nên can thiệp thật đúng lúc, đúng hoàn cảnh, rút chúng tôi ra khỏi nơi biến loạn để đưa chúng tôi đến Thủ Đức, một quận lỵ khá được an ninh. Thật cảm tạ ơn Chúa nếu lúc loạn cướp và chiến tranh xảy ra như thế mà chúng tôi còn ở tại Bến cát thì không biết mình sẽ ra như thế nào? Chắc khó an toàn cho tánh mạng!
CHƯƠNG NĂM
ĐẤNG BẢO HỘ TẠI THỦ ĐỨC VÀ CẦN GIUỘC
Cám ơn Chúa, khi chúng tôi ở Thủ Đức chừng một tháng chưa biết làm chi để sinh sống thì có người bạn quen đến chỉ dẫn chúng tôi mua bán đồ Bazar. May mắn là sau đó chúng tôi mướn được một căn nhà gần chợ thuận hiệp cho việc mua bán nên chúng tôi khởi sự mua bán cũng được phát đạt. Mặc dù mua bán được khá nhưng thật ra lòng chúng tôi chỉ muốn đi hầu việc Chúa mà thôi. Nhưng vì lúc bấy giờ chiến tranh lan rộng ra cả xứ, nhiều nhà thờ bị đóng cửa nên chúng tôi đành chấp nhận giải pháp mua bán tạm sống để chờ đợi sự sắp đặt của Ban Trị sự Địa hạt.
CHÚA CỨU KHỎI VIÊN ĐẠN OAN NGHIỆT
Nhớ lại một ngày kia, có một anh quân nhân đến nhà chơi để súng trên bàn, mũi súng quay về phía chúng tôi. Sau vài phút hàn huyên, anh ta để tay lên cò súng bóp cò chơi nhưng cò súng hơi cứng. Người lật đật mở súng ra thấy có một viên đạn. Người la lên: “May quá! Thường ngày tôi quen tay, hay bóp cò kêu cốc cốc chơi, hôm nay sao thấy hơi cứng tôi không muốn bóp.” Chúng tôi nghe vậy cũng ghê rợn người và cảm tạ ơn Chúa vì biết có Ngài bảo vệ nên mới được thoát khỏi nạn.
ƠN CHÚA CỨU KHỎI NẠN TRÁI DỪA RỤNG NGAY TRÊN GIƯỜNG NGỦ
Một buổi sáng Chúa nhật kia, chúng tôi đi nhà thờ, lúc trở vế nhà, thấy có trái dừa to lớn và ngói bể nằm ngổn ngang trên giường ngủ. Ngó lên nóc nhà thấy một lỗ trống lớn, bể cả hàng chục tấm ngói, luôn cùng miếng cây mè cũng bị gãy. Được biết gần đó có cây dừa rất cao, nghiêng qua nhà, trái rụng xuống với tốc lực khá mạnh. Cám ơn Chúa. Nếu trái dừa rụng xuống vào lúc ban đêm, chúng tôi và một cháu nhỏ chắc bị thương tích hay nguy hiểm đến tính mạng. Thật Chúa là Đấng toàn tri, toàn năng là Đấng mà chúng tôi tin và nương náu hằng ngày nơi Ngài nên được thoát nạn. Như Kinh thánh đã chỉ dạy: “Ngươi đã nhờ Đức Chúa Trời làm nơi nương náu mình… nên sẽ chẳng có tai họa nào xảy đến ngươi.” (Thiên 91:8-10 )
ƠN CHÚA CỨU KHỎI BỊ GIAM VÔ CỚ
Một đêm kia, lúc 12 giờ khuya, hai tên quân nhân Pháp da đen đi tuần chung quanh chợ Thủ Đức kêu cửa bắt tôi dẫn đi. (Lúc bấy giờ tình hình nghiêm trọng, có lẽ họ thấy đếm ấy tôi thức khuya nên khả nghi). Dọc đường tôi cầu xin Chúa giải cứu khỏi hai tên ác ôn. Lúc đến trại binh liền gặp ngay ông xếp Pháp. Tôi kêu nài là họ bắt tôi vô cớ lúc đang ở trong nhà. Sau khi ông xếp biết tôi đang ở nhà mà bị kêu cửa bắt, ông liền tha cho tôi về và còn quở hai tên quân nhân. Thật cảm tạ ơn Chúa, nếu không gặp liền ông xếp chắc tôi có thể bị giam ít lắm cũng vài đêm vô cớ.
ƠN CHÚA ĐƯA ĐƯỜNG ĐẾN CẦN GIUỘC VÀ CỨU TÔI KHỎI NẠN VÌ XE ĐẠP BỊ GÃY.
Cám ơn Chúa, mặc dù chúng tôi mua bán cũng được nhiều may mắn nhưng lòng vẫn muốn hầu việc Chúa, nên đến năm 1949 chiến tranh trong xứ có vẻ giảm bớt, nhiều Hội thánh được mở cửa trở lại. Tôi gởi đơn đến BTSĐH để xin ra hầu việc Chúa thì liền được bổ chức đến hai Hội thánh Cần Giuộc và Long Trạch.
Cám ơn Chúa, Ngài giúp chúng tôi thu xếp việc mua bán được mau lẹ nội trong tuần là xong. Đoạn, tôi xuống Cần Giuộc bàn giao trách nhiệm với vị Mục sư ở đó. Lúc xuống Sài Gòn để đi Cần Giuộc, tôi chưa biết rõ đường nên còn lưỡng lự để chờ hỏi thăm thì thình lình gặp người bạn, người chỉ đường và hơn nữa người cùng đi với tôi đến Cần Giuộc cho vui. Thật cám ơn Chúa. Tuy việc không quan trọng nhưng thấy Chúa cũng dự bị giúp cho lúc có cần, nên chúng tôi tin rằng sau này chúng tôi có gặp phải việc lớn lao bao nhiêu đi nữa, chắc Ngài cũng sẵn lòng lo liệu.
Cám ơn Chúa, sau vài tuần chúng tôi dọn đến Cần Giuộc, được anh em tín hữu trong Hội thánh tiếp rước rất nồng hậu. Vì phải hầu việc Chúa trong hai Hội thánh nên ngày Chúa nhật giảng Hội thánh này thì thứ Năm lại giảng cho Hội thánh kia.
Nhớ lại, một buổi sáng kia như thường nhật, tôi đi xe đạp cùng với một Ông Chấp sự trong Hội thánh Cần Giuộc để qua giảng cho Hội thánh Long Trạch. Buổi sáng hôm ấy, thì giờ cũng hơi gấp nên chúng tôi đạp với tốc lực cũng khá mau. Thình lình cổ xe đạp của tôi bị gãy lìa làm hai. Tôi bị quăng nhào tới phía trước độ hơn hai thước. Ngang qua một gốc cây bị chặt còn cao cở 3 tấc, có mọc lên năm hay sáu cái chồi non, các chồi đều bị gãy giập nhưng tôi chỉ trầy sơ chút ít. Thật cám ơn Chúa. Chúng tôi biết đó là quyền năng lạ lùng của Chúa cứu tôi thoát khỏi đâm đầu vào gốc cây và khỏi bị té nằm trên cổ xe đạp bị gãy nhọn. Vì con cái Chúa thì luôn được Thiên sứ của Đức Chúa Trời phò hộ và che chở như Kinh Thánh sách Thi Thiên đã chép: “Bởi vì ngươi đã nhờ Đức Giê-hô-va làm nơi nương náu mình,… nên sẽ chẳng có tai họa nào xảy đến ngươi, vì Ngài sẽ ban lệnh cho Thiên sứ Ngài bảo gìn giữ ngươi trong các đường lối ngươi.” (Thiên 91:9-11 )
CẢ MỘT GIA ĐÌNH MỚI TIN CHÚA ĐƯỢC TIẾN TỚI VƯỢT BẬC
Đã là nhà truyền giáo thì dẫn được người trở lại tin Chúa cũng chẳng có gì đáng phải nói nhưng tôi xin kể lại việc sau đây, vì thật sự là ơn Chúa rất diệu kỳ! Một ngày kia, chúng tôi vào vùng quê thăm một người tên là: Nguyễn Văn Đáo, người than thở vì cả gia đình đang đau cả tuần mà chưa có vẻ gì giảm bớt. Vợ anh thì nằm bên đó, ba con gái 16, 19 và 21 tuổi thì nằm bên kia và chính ông cũng đau nữa nhưng ráng săn sóc gia đình.
Thông cảm hoàn cảnh hoạn nạn. Tôi thầm nguyện xin Chúa cứu giúp gia đình này. Đoạn, tôi khởi sự giới thiệu tình thương Cứu Chúa và chính Ngài là Đấng quyền năng cứu người cả linh hồn lẫn thể xác. Người nghe rất chăm chú. Sau khi nghe Đạo, người xin chúng tôi cầu nguyện cho người và cả vợ con tin Chúa. Tôi liền cầu nguyện và dạy họ cầu nguyện cùng Chúa.
Thật cám ơn Chúa, sau vài ngày, chúng tôi trở lại thăm viếng, thấy ai nấy đều có thể ngồi dậy ăn uống được ít nhiều và sau đó thì mọi người đều được phục sức lại bình thường. Chúng tôi cho họ Thánh ca, Kinh Thánh và dạy họ cách cầu nguyện, cùng khuyên họ mỗi tối nên nhóm lại hát Thánh ca, đọc Kinh Thánh và hiệp chung cầu nguyện. Họ rất vui vẻ vâng lời và chúng tôi thường xuyên thăm viếng họ.
Trải qua gần hai tháng, người tín hữu mới nầy gặp nhiều việc ngăn trở và khó khăn nên không đến nhà thờ được, mặc dù gia đình người hết sức muốn đi. Nhưng người vẫn giữ vững sự cầu nguyện mỗi tối trong gia đình để dạy các con cầu nguyện. Rồi sau đó, ông bà và con cái vượt qua được mọi sự ngăn trở và đồng đến nhà thờ thờ phượng Chúa rất vui vẻ. Trong giờ cầu nguyện tại nhà thờ, ông bà và các con đều đứng dậy cầu nguyện trôi chảy như những tín hữu lâu năm; khiến mọi người đều lấy làm lạ hỏi chúng tôi anh chị em ấy ở đâu mới đến? – “Đó là gia đình anh Đào mới tin Chúa vài ba tháng!” Ai nấy đều ngạc nhiên và ngợi khen Chúa.
Thật cảm tạ ơn Chúa hơn nữa, là gia quyến anh Đào hết sức sốt sắng hầu việc Chúa tại Hội thánh Long Trạch và sau đó đã dẫn đưa được một số bạn bè trở lại tin Chúa. Như Đ.C Jê-sus đã phán: “Hột giống Đạo được gieo vào đất tốt thì một hột sanh ra 30, 60 và 100” (Mathiơ 13:23)
ƠN CHÚA DỰ BỊ MỘT NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG ĐỂ KHỎI BỊ TRỄ TÀU.
Gần một năm hầu việc Chúa ở hai Hội thánh, chúng tôi ước ao muốn trở lại Trường Kinh Thánh để trao dồi thêm Lời Chúa. Chúng tôi liền gởi đơn đến ông Đốc học trường, cũng như BTSĐH để xin trở lại trường học Khóa tốt nghiệp. Sau khi được cả hai cơ quan chấp thuận, chúng tôi chuẩn bị lên Sài Gòn để đáp tàu thủy ra Đà Nẵng.
ược biết rằng tàu sẽ kéo neo vào lúc 8 giờ sáng, theo chương trình chúng tôi phải đến tại bến tàu trước 7 giờ. Nhưng đến ngày đi, đã 6 giờ sáng, rồi 7 giờ mà chiếc xe chúng tôi và các anh em sinh viên hùn nhau mướn để chở đồ lại không đến. Hốt hoảng, mạnh ai nấy kêu xe ngựa nhưng đón mãi mà chẳng được chiếc nào. (Cũng may nếu đi xe ngựa có thể bị trễ tàu vì người ta cấm xe ngựa chạy vô tới bến). Song vì đồ đạc hơi nhiều nên chúng tôi cố ý đón cho được xe ngựa. Nhưng thì giờ qua mau quá! Đã gần 7 giờ rưỡi mà không đón được chiếc nào. Chúng tôi liền kêu 4 chiếc xích lô chở đi. Nhưng khổ là mấy anh xích lô cũng như chúng tôi đều không biết chiếc tàu Saint Michel đậu ở bến số mấy. Khi đến xóm bến tàu, nhóm chúng tôi ngừng lại hỏi thăm nhưng không ai biết rõ tàu ở bến nào. Hết sức bối rối, tôi cầu xin Chúa chỉ dẫn cách nào để khỏi bị trễ tàu. Cám ơn Chúa. Thình lình một phu bến tàu chạy đến hỏi: “Thầy kiếm bến tàu nào?” Mừng quá tôi vội hỏi: “Anh biết tàu Saint Michel đậu ở bến số mấy không?” – “Ở bến số 5. Giờ này sợ ra bến không kịp.” Nhưng người bằng lòng chạy bộ theo xích lô độ mấy trăm thước để chỉ bến. Khi vào đến bến, người phụ với phu bến đem đồ chúng tôi lên tàu. Chúng tôi rất cám ơn người và cho tiền dẫn đường vừa xong là tàu huýt còi, kéo neo. Nếu đến trễ độ chừng năm, ba phút thì có thể bị trễ tàu. Thật cám ơn Chúa đã dắt dẫn chúng tôi đúng lúc và kịp giờ lên tàu để đi Đà Nẵng. Ha-lê-lu-gia !
Sau niên học tại trường Kinh thánh. Chúng tôi lãnh hội được nhiều ơn phước rất linh động qua những giờ học Lời Chúa và trong những giờ tâm giao với Ngài. Chúng tôi ý thức được trách nhiệm của người giảng Tin lành nên cảm thấy lòng sống động, nóng nảy, muốn trở lại Hội thánh với sứ mạng của Đức Chúa Trời giao phó, quyết tâm đem đời sống cùng mọi kiến thức đã thu nhập được ra áp dụng trên chiến trường thuộc linh, hầu dắt dẫn cho được nhiều linh hồn tội nhân trở về với Cứu Chúa.
CHƯƠNG SÁU
ƠN CHÚA THƯƠNG XÓT TẠI QUẬN LỴ LONG THÀNH
Sau một niên học tốt nghiệp trở về. Chúng tôi được bổ chức đến Hội thánh Long Thành, tháng 8, năm 1950. Hội thánh Long Thành là một Chi hội nhỏ, chỉ có chừng 10 tín hữu mà lại không có Mục sư đã hơn một năm, nên nhà cầm quyền địa phương như có vẻ xem thường!
Khi chúng tôi đến Long Thành được vài tuần, có chừng năm, bảy người trong làng xa đến tìm tôi hỏi thăm Đạo và tin Chúa. Sau đó, họ nhờ tôi đến nhà binh Pháp xin giấy tờ và cũng yêu cầu tôi cho họ tạm trú ít ngày tại nhà thờ. Tôi dẫn họ đến chỗ nhà binh xin giấy tờ. Việc này gây nên sự va chạm với ông Chủ Quận địa phương. Ông nói việc đó do thẩm quyền của ông chớ chẳng phải của nhà binh. Ông phàn nàn tôi dữ dội tại nhà làng. Đoạn, ông cho lính đến vây nhà thờ, bắt hết các tín đồ mới. Cảm thấy Danh Chúa bị tổn thương, chúng tôi cầu xin Chúa bênh vực Danh Thánh của Ngài, đừng để loài người ỷ thế lực khinh dể Danh của Chúa, và xin Ngài giải thoát anh em tín hữu mới, để họ thấy quyền phép lớn lao của Chúa hầu bước theo đường lối của Ngài.
Cám tạ ơn Chúa, vài ngày sau, anh em tín hữu ấy được trả lại tự do. Hơn thế nữa, chính Đức Chúa Trời binh vực Danh thánh của Ngài. Chừng 15 ngày sau, viên Chủ quận ấy bị cách chức và phải giao quyền lại cho viên Thơ ký Quận thay thế tạm.
Lại nữa, vài tháng sau, cũng có vài người từ trong làng xa đến tìm tôi để xin tin Chúa và nhờ tôi giúp xin giấy tờ. Ngược lại lần trước, tôi không dẫn họ đến nhà binh mà lại dẫn họ đến Nha quận để xin giấy tờ. Sau khi họ được giấy tờ vài ngày thì nhà binh Pháp lại đòi các tín hữu ấy đến bắt giam và nói rằng: Họ là Việt minh, cùng quở trách nặng viên Thơ ký thế quyền Chủ quận. Người đổ lỗi tại tôi giới thiệu. Sau đó, viên quyền Chủ quận mời tôi đến Nha quận phàn nàn lắm lời. Trở về nhà, chúng tôi cầu xin Chúa giải thoát giùm anh em tín hữu mới tin Chúa, để họ thấy ơn yêu thương của Ngài.
Cám ơn Chúa, vài ngày sau thì nhà binh Pháp trả tự do cho anh em tín hữu. Tuần sau đó, viên thư ký quyền Chủ quận bị đổi đi xa một cách gấp rút, bỏ vợ con lại có vẻ thật buồn bã! Lúc bấy giờ có dư luận lầm tưởng chắc Đạo Tin Lành có thế lực nào phía sau bênh vực? Nhưng trên thực tế thì người có Đạo Tin Lành ai cũng biết rõ Đạo chẳng nương nhờ một thế lực nào của đời này. Chúng tôi chỉ nương dựa vào thế lực của Đấng cầm quyền vũ trụ. Đấng đó tức là Đức Chúa Trời, như Chúa đã phán với Giê- rê-mi: “Ta lập ngươi lên làm cột bằng sắt, làm tường bằng đồng… Họ sẽ tranh đấu với ngươi, nhưng không thắng hơn ngươi được.” (Giê-rê-mi 1:18-19).
Sau đó vài tháng, một viên Tân Chủ quận được bổ chức đến, người rất tử tế, thỉnh thoảng mời chúng tôi đến dùng cơm thân mật tại tư gia của ông. Đôi khi người cũng đến nhóm họp tại nhà thờ. Đã có một lần, tôi nhờ ông thông dịch bài giảng của tôi ra tiếng Pháp trước buổi lễ chiến sĩ trận vong của quân đội Pháp.
ƠN CHÚA NGĂN TRỞ KẺ HÀNH HUNG
Nhớ lại một việc, đến nay nhắc lại cũng còn ngán kẻ hung dữ. Nếu ở đời mà đem lý lẽ nói chuyện phải trái với kẻ không muốn nghe phải trái, thì cũng không khác nào mang họa vào thân.
Một buổi trưa kia, có đám vợ con lính nhà binh đến bẻ phá trái cây chung quanh nhà thờ, vừa hái ăn, vừa ném bỏ. Thấy vậy, tôi đến nói với họ “Cây trái có chủ, chị em đến hái ăn sao không hỏi xin tôi. Tại đây là nhà thờ, gần sát bên nhà binh mà chị em còn hành động như vậy, huống chi ở nhà quê thì chị em đối xử với đồng bào ta như thế nào nữa? Nói cho biết vậy thôi, chị em ăn bao nhiêu cứ hái ăn, nhưng đừng hái ném bỏ các trái non.” Họ giận bỏ ra về và nói thêu dệt với các anh chồng lính như thế nào không rõ mà các anh lính hăm dọa sẽ đến hành hung tôi. Trong trại lính có mấy tín hữu nghe tự sự đều khuyên can; nhưng họ cương quyết hẹn nhau 6 giờ chiều đến nhà tôi… Được tin cho hay, chúng tôi cũng ngán bọn ác ôn (Biết rằng: Đám lính này, mấy tháng trước có vây đánh viên Chủ quận, khiến người phải chạy trốn trong một phòng thánh của nhà thờ công giáo, và được đoàn xe chánh phủ từ Biên Hòa đến rước đi luôn). Có người tín hữu đề nghị với chúng tôi nên báo tin khẩn cấp cho vị Quan ba nhà binh hay để can thiệp. Nhưng chúng tôi chỉ muốn cầu xin cánh tay quyền năng Chúa can thiệp mà thôi; chớ không muốn cậy chút thế lực nào khác bênh vực. Cám ơn Chúa, cánh tay Đức Chúa Trời không phải ngắn mà không bảo vệ chúng tôi được.
Chiều hôm đó, không thấy đám lính hăm dọa ấy đến. Sáng hôm sau, tín hữu ở trong nhà binh đến cho chúng tôi hay rằng: “Đám lính muốn đến đánh Thầy tôi khuyên không được. Chiều hôm qua, có lệnh đi hành quân, mấy thằng đầu đảng đã tử trận hết rồi, Thầy đừng lo sợ chuyện ấy nữa.” Thật ơn Chúa bảo vệ rất diệu kì! Ngài không để chúng tôi bị sa vào tay đám người gian ác như tác giả Thi thiên đã nói “Đức Chúa trời bênh vực tôi; loài người sẽ làm chi tôi?”… “Thà nương náu mình nơi Chúa, còn hơn tin cậy loài người” (Thiên 118: 6 – 8).
ƠN CHÚA BẢO VỆ KHỎI SÚNG ĐẠN
Lúc bấy giờ, thỉnh thoảng mọt chê từ trong đồng ruộng bắn ra trúng vào phía nhà binh, mà nhà thờ thì nằm sát bên hàng rào nhà binh. Nếu mọt chê chỉ đi sái trong gang tấc thì có thể lọt vào nhà thờ. Sự nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ giờ phút nào không lường trước được. Nhưng cám tạ ơn Chúa, Ngài đủ quyền bảo vệ chúng tôi như Tác giả Thi Thiên đã nói: “Sẽ có muôn ngàn người sa ngã bên ngươi; song tai họa sẽ chẳng đến gần trại ngươi”. (Thi Thiên 91:7) Và mấy tháng sau đó, một trái đạn pháo cỡ lớn lọt ngay vào khu nhà thờ gây thiệt hại ít nhiều về vật chất; nhưng cám ơn Chúa, lúc đó chúng tôi đã đổi về Hội thánh Bình Hòa Phước. Và được biết rằng trái đạn ấy đã gây cho người giữ nhà thờ ngủ trên cái giường mà chúng tôi ngủ khi trước bị hộc máu và té xỉu, phải chở vào bệnh viện cấp cứu. Chúng tôi nhớ lại ơn Chúa đối với chúng tôi thật rất diệu kì! Nếu lúc đạn trái phá rớt như vậy mà chúng tôi và ba cháu nhỏ còn ngủ ở đó, chắc có thể bị lâm nạn ! Thật cám tạ ơn Chúa.
ƠN CHÚA BẢO VỆ KHỎI SẬP NHÀ THỜ.
Nhớ lại một buổi sáng kia, tôi cùng anh Lương Văn Học, Chấp sự Hội thánh Long Thành, đang đứng bên hông nhà thờ nói chuyện. Thình lình, anh Học chạy lấy thang leo lên coi cây chốt của cây trính sường nóc nhà thờ. Xem kỹ chỉ còn là vỏ, còn ruột bị mối mọt ăn hết. Tiếp tục xem xét hết thảy nhà thờ thì thấy mấy chốt khác cũng chỉ còn là vỏ. Hoảng sợ, chúng tôi liền làm lại những cây chốt mới để thay thế và hơn thế thế nữa, còn đóng phụ thêm vào những cây đinh lớn rất chắc.
Tuần sau, một cơn bão dữ dội, thổi đến suốt đêm. Nhà thờ bị rung chuyển với tiếng kêu nghe răng rắc rất khủng khiếp! Cơn bão này quá mạnh gây cho hàng trăm cây cối ngã đổ, nhiều nhà bị hư sập và lụt ngập cuốn nhiều nhà trôi đi. Cám ơn Chúa. Nếu Ngài không chỉ dẫn tìm ra mối mọt kịp thời, chắc nhà thờ có thể bị sập ngay lúc bão; và gia quyến chúng tôi ngủ ở phòng sau nhà thờ, không biết tánh mạng như thế nào? Thật Chúa là Đấng biết trước tất cả mọi sự hiểm nguy sẽ xảy ra trên chúng tôi, nên Ngài thi hành sự cứu giúp đúng lúc, kịp thời, hầu bảo vệ chúng tôi khỏi tai nạn! Cám ơn Chúa
ƠN CHÚA CỨU NHÀ VÀ NHÀ THỜ KHỎI BỊ CHÁY.
Buổi sáng kia, tôi đi đến một làng xa để thăm tín hữu, nhưng không biết sao hôm đó lại muốn về nhà sớm. Vừa về đến trước cửa nhà thì thấy cái nhà tranh của người lân cận kế bên đang cháy. Nhà bếp và nhà ở của chúng tôi gần bên cạnh nhà bị cháy cũng được lợp bằng tranh, và nhà thờ tuy lợp ngói, nhưng lại nằm gần sát bên nhà bếp. Hốt hoảng, chúng tôi chạy đến chữa lửa thì thấy một đứa gái độ 14 tuổi làm cháy nhà rồi chạy ra sân cười hoảng! Chúng tôi tạt nước lên nhà bị cháy, nhưng ngọn lửa nóng quá khó đến gần. Đồng thời, chúng tôi cũng lo tạt nước lên mái nhà bếp để tàn lửa tắt khi vừa rớt xuống. Mặc dầu chúng tôi tận tâm chữa lửa, nhưng nhà hàng xóm cũng đã cháy gần hết. Song cám ơn Chúa, nhà chúng tôi thì không sao! Nếu tôi về trễ độ năm, ba phút, thì nhà bếp chúng tôi có thể bị lửa cháy lan và nhà thờ nằm kế bên nhà bếp cũng không biết sẽ ra như thế nào? Sự dẫn dắt của Chúa khiến tôi về kịp lúc rất diệu kỳ! Thật cám tạ ơn Chúa.
ƠN CHÚA DỰ BỊ VẬT LIỆU XÂY CẤT NHÀ.
Chiến tranh cũng đã xảy đến tàn phá làng tôi (Mỹ An). Ông bà thân và hai em trai tôi phải ra tá túc với chúng tôi. Cả gia quyến gồm 9 người mà số tiền trợ cấp của Hội thánh cũng chẳng được bao nhiêu. Hơn nữa, Hội Truyền Giáo cho hay họ không còn có công quỹ giúp đỡ cho những Hội thánh thiếu nữa. Vậy các vị mục sư, truyền đạo tùy ý tự túc để có phương tiện hầu việc Chúa. Chúng tôi cầu nguyện Chúa chỉ dẫn cách nào để có thể hầu việc Chúa. Sau ít ngày cầu nguyện, chúng tôi bàn tính cất vài căn phố để có chỗ cho hai em tôi mua bán, hầu nhẹ bớt gánh nặng gia đình được phần nào.
Tôi liền đến trình bày cùng ông Chủ quận, muốn cất vài căn phố ở chợ, để hai em tôi sinh sống vì họ ở từ quê xa mới tản cư ra. Ông rất vui lòng. Nhưng làm sao cho có đất? Ông suy nghĩ một chút rồi nói: “Được, tôi sẽ cho dời hai căn nhà cây để cho dân hồi cư tạm trú ra một chỗ khác, nhường chỗ đất đó cho ông cất nhà.” Thật cám ơn Chúa cho chúng tôi được may mắn! Sau đơn xin xây cất hai căn nhà bằng gạch ngói được chấp thuận tại Quận, chúng tôi nạp đơn đến Tỉnh Biên Hòa, thì đơn bị ém nhẹm khá lâu; nhưng nhờ viên Chủ quận tận tình giúp đỡ nên mọi việc cũng được xong. Đã có giấy phép rồi, bây giờ làm sao mua được gạch và cây? Vì chiến tranh, chẳng ai dám vào rừng đốn cây, và lò gạch cũng bị bỏ hoang. Tôi cậy người quen đi tìm mua gạch cũ và cây cũ. Ít ngày sau, có một người muốn bán gạch cho tôi, vì muốn có tiền, nên người liều mạng vào rừng sâu để cạy lò gạch cũ của nhà binh Nhật khi trước bỏ lại, đem về bán cho tôi số gạch vừa đủ xây hai căn nhà. Còn dư lại bao nhiêu trong rừng, nhà binh Pháp sau đó đến sung công hết số gạch ấy để dùng vào việc xây cất trại lính. Cám ơn Chúa đã dự bị cho chúng tôi mua được đủ số gạch cần thiết để làm hai căn nhà; cũng như mua được cây của một người dự bị cất nhà nhưng không cất, bán lại cho tôi.
Chúng tôi đã xây xong hai căn phố và đóng được mè, ron; nhưng không tìm được nơi nào bán ngói. Chúng tôi đến Biên Hòa kiếm mua cũng không được vì tất cả lò gạch ngói lúc bấy giờ đều bỏ hoang. Chúng tôi rất lo vì mùa mưa đã đến. Trải qua một tháng, chúng tôi tha thiết cầu nguyện, xin Chúa giúp đỡ cách nào để có ngói.
Cám ơn Chúa, một buổi sáng kia, tôi đang ngồi trước hai căn nhà mới ngẫm nghĩ… thình lình có một người đến hỏi: “Thầy mua cây không?” Tôi trả lời: “Cần ngói chứ không cần cây”. Người la lên: “Ô hôm qua tôi thấy có nhiều người kéo cả chục xe bò ngói để tại làng Phước Lai!” Mừng quá, tôi liền nhờ người dẫn đường đến chỗ có ngói. Người có ngói thấy tôi muốn mua cũng mừng lắm, vì sợ nhà binh biết được, thì số ngói sẽ bị xung công. Sau khi giá cả xong, người bán ngói chở liền cho tôi nội trong ngày. Qua ngày hôm sau, nhà binh đến cùng người bán ngói để sung công số ngói; nhưng người bán đã chở hết ngói đến cho tôi kịp thời. Cám ơn Chúa, Ngài đã đáp ứng lời cầu nguyện rất diệu kì! Nếu chỉ trễ một ngày là tôi không mua được số ngói hiếm có ấy.
Sau đó, người bán ngói nói với chúng tôi: “Không biết ai xui giục mà tôi chịu cực khổ cả tuần nay, xuống tới rừng sát chở ngói đem về quá sức cực nhọc, thiếu điều muốn bỏ mạng, nhưng bán cũng không được bao nhiêu tiền và may là còn bán được, nếu trễ một ngày là nhà binh lấy hết!” Nghe biết vậy, chúng tôi càng thêm lòng tạ ơn Chúa đã giục lòng người đó mang về số ngói cho chúng tôi để lợp nhà.
Khi lợp xong, chúng tôi thấy còn thiếu chừng 500 tấm. Chưa biết tính lẽ nào thì cám ơn Chúa, tuần sau, có một ông già quen cùng xóm, kéo ngang qua một xe bò ngói, kêu tôi: “Thầy cần ngói không?” Tôi chỉ kiếm mua vài trăm tấm mà người bán buộc tôi phải mua hết số ngói mới chịu bán; nên tôi sẵn xe kéo hết về đây”. Mừng quá! Miệng tôi lẩm bẩm cám ơn Chúa về sự dự bị của Ngài rất diệu kì, khiến chúng tôi được nhiều may mắn. Cũng như Tác giả Thi Thiên đã kinh nghiệm ơn Chúa nên đã nói: “Phước cho người nào có Đức Chúa Trời của Gia-cốp giúp đỡ mình” (Thiên 146:5 ). Nhờ có số ngói này nên tôi lợp vừa đủ lỗ trống còn thiếu! Cám tạ ơn Chúa.
ƠN CHÚA CỨU HAI CĂN NHÀ CHÚNG TÔI VỪA MỚI CẤT KHỎI BỊ CHÁY.
Hai căn nhà vừa làm xong, tôi đến ngủ nhà mới để sửa sang thêm vài việc cần làm. Thình lình khoảng hai giờ khuya đêm đó, gần năm, sáu chục căn nhà tranh bên kia lộ đối diện nhà tôi bị hỏa họan. Con lộ này nhỏ nên lửa lòe ngọn qua gần tới cửa sau nhà chúng tôi. Hơn nữa, đồng bào bị nạn, họ như mất hồn, quăng bừa bải mùng, mền, chiếu, gối, rương trắp, nằm ngổn ngang ngay cửa sau nhà chúng tôi; và lửa cũng đã bắt đầu cháy đồ đạc sát bên cửa cây rồi. Ở phía trong nhà ngó ra thấy đồ đạc cháy bên cửa; nhưng tôi không làm sao mở được cửa để tạt nước, vì ngọn lửa bên kia lòe qua nóng cách khủng khiếp! Tôi xin Chúa cứu giùm nhà tôi khỏi bị cháy. Cám tạ ơn Chúa, Ngài liền khiến có một ngọn gió thổi ngọn lửa ngược trở lại! Thấy bớt nóng, tôi liền hé cửa tưới nước trên đồ vật đã bị cháy. Đồng thời, tôi cũng tạt nước trên cửa và mái nhà nghe tiếng xèo xèo. Tuy nhà không bị cháy nhưng cửa cũng bị xém đen. Thật cám tạ ơn Chúa. Nếu gió không trở ngọn; và nếu tôi không đến ngủ tại nhà mới trong đêm đó, chắc nhà đã bị cháy. Thật Đức Chúa Trời có vùa giúp chúng tôi cất được nhà và bảo vệ giùm sản nghiệp nên mới khỏi bị hỏa hoạn! Chúng tôi suy nghĩ: Nếu Chúa không bảo vệ sản nghiệp, thì con người dù có cố gắng làm việc bao nhiêu cũng luống công như Tác giả Thi Thiên nói: “Nếu Đức Chúa Trời không cất nhà, thì những thợ xây cất nhà lấy làm uổng công.” (T.Thiên 127:1).
ƠN CHÚA NHẬM LỜI CẦU NGUYỆN CỨU MỘT ĐỨA TRẺ TỈNH LẠI.
Buổi chiều kia, tôi đang đi dạo ngoài vườn. Thình lình vợ tôi chạy ra cách vội vả mời vô cầu nguyện cho em Trí, nó đau nặng và sắp tắt thở. Má nó vừa ẵm đến khóc lóc xin cầu nguyện. Tôi trở vào nhà, lòng thầm nguyện, xin Chúa cứu giùm em Trí, vì má em nầy mới tin Chúa. Tôi nhìn đứa bé thấy mặt tái xanh, chỉ còn nghe một tiếng hướt. Hiện diện trong lúc đó, có cả gia quyến đứa bé gồm ba người chưa tin Chúa (Bà ngoại, Cậu và Dì). Tôi cúi đầu cầu nguyện lớn tiếng xin Đức Chúa Trời ban một ơn huệ cứu giùm đứa bé, để cho bà con chưa tin Chúa đứng đây thấy quyền phép lạ lùng của Ngài, để họ có thể tin Ngài hầu cho linh hồn được cứu! Tôi tiếp tục cầu nguyện chừng 5 phút. Tạ ơn Cứu Chúa vì quyền phép Chúa thật lạ lùng. Sau khi cầu nguyện xong, em Trí mở mắt ra bình tĩnh như chẳng đau bệnh gì.
Cả gia quyến đứa bé phát cười rộ lên vui vẻ! Lợi dụng cơ hội, tôi khuyên mỗi người nên tin Chúa. Cám ơn Chúa, cả gia quyến đều tin Chúa Jê-sus liền trong giờ đó. Và suốt thời gian chúng tôi còn hầu việc Chúa tại Hội thánh Long Thành; gia quyến này vẫn thường xuyên đi nhà thờ để thờ phượng Chúa.
ƠN CHÚA DỰ BỊ MỘT CHIẾC XE VỀ KỊP NGÀY CHÚA NHẬT
Một buổi chiều kia, tôi từ Sài Gòn về Biên Hòa. Tôi biết đã trễ giờ đón xe về Long Thành, vì đã quá 5 giờ chiều mà chiếc xe đò tôi đang đi chưa về đến Biên Hòa (Từ Long Thành đến Biên Hòa phải chờ 10 ngày mới có một ngày mà nhà binh hộ tống cho xe lưu thông, nhưng đến 5 giờ là hết xe). Tôi cúi đầu cầu nguyện, xin Chúa dự bị cho một chiếc xe đi trễ để tôi có thể về Long Thành. Vì nếu bị trễ xe, phải mất 10 ngày nữa mới về nhà được, phải bỏ hai Chúa nhật. Khi xe đò đến Biên Hòa, cám ơn Chúa, tôi thật vui mừng thấy vẫn còn một chiếc xe đang chết máy, anh tài xế đang lui cui sửa. Các hành khách ngồi dựa mé lộ khoanh tay có vẻ bực bội! Tôi hỏi: “Chào các bà. Xe còn chỗ không?” – “Còn, mà xe bị chết máy.” Mừng quá! Tôi bước lên xe ngồi. Liền lúc đó anh tài xế cũng vừa sửa máy xong. Lên xe cho máy nổ thử. Máy nổ. Các hành khách reo lên cười rộ! Đoạn, xe bắt đầu chạy. Một bà hành khách nói: “Ông này là ông gì mà vừa leo lên xe là xe chạy được! Từ sớm đến giờ anh tài xế sửa muốn hụt hơi mà máy không nổ”. Nghe vậy, lòng tôi cám tạ ơn Chúa hơn nữa, vì biết Đức Chúa Trời đã đáp ứng lời cầu nguyện nên đã dự bị một chiếc xe bị trục trặc để đưa tôi về Long Thành cho kịp ngày Chúa nhật. Cám ơn Chúa, dầu chỉ là việc đi đường tầm thường Chúa cũng vui lòng giúp đỡ, nên khi đi cũng như lúc về đều được may mắn và có phước. Đúng như lời Chúa phán trong sách Phục truyền: “Nếu ngươi nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời cách trung thành, cẩn thận làm theo… Ngươi sẽ được phước trong thành và được phước ngoài đồng ruộng… Người sẽ được phước khi đi ra, và sẽ được phước khi đi vào.” (Phục truyền 28:1,3,6).
ƠN CHÚA GIÚP CHO VIÊN PHI CÔNG BỚT SAY.
Một ngày kia, tôi có việc cần phải đi Sài Gòn, nhưng chưa đến ngày có xe nhà binh hộ tống. Tôi phải đi nhờ máy bay 4 chỗ ngồi của hãng cao su. Khi máy bay cất cánh được ít phút, thì anh phi công Pháp lái máy bay gục lên gục xuống vì đã uống quá nhiều rượu đế. Tôi và hai hành khách ngồi phía sau đều phát sợ! Một bà hành khách nói: “Trước khi lên máy bay, thấy nó uống cả sị (chai sá- sị) rượu đế. Chúng tôi bàn luận phải làm sao, chớ để người nầy ngủ gục thì nguy! Tôi vỗ vai kêu thức dậy đi! Người cố nhướng mắt lên. Nhưng sau đó, người cũng gục xuống nữa như mê ngủ. Biết chuyến bay có thể nguy hiểm, tôi cúi đầu cầu nguyện, xin Chúa giúp cho người được tỉnh rượu trong giờ phút có cần. Nếu chuyến bay này gặp nạn là chấm dứt đời tôi trên đất. Xin Chúa cho tôi sẵn sàng gặp Chúa. Đoạn, tôi kêu người một lần nữa. Cám ơn Chúa người có vẻ khá hơn đôi chút. Tôi bắt đầu chú ý máy móc, xem xét những nút, tay lái và thắng để đề phòng rủi người phi công nầy có bị mê man thình lình thì trong trường hợp bất trắc, tôi sẽ đánh liều thay thế. Nhưng cám ơn Chúa, anh phi công lần lần được khá hơn nên có thể điều khiển máy bay đáp xuống sân được an toàn. Hai người hành khách cũng như tôi đều thở được một hơi nhẹ nhàng vì nhận biét mình được thoát nạn!
CHÚA SAI MỘT QUÂN NHÂN PHÁP ĐẾN SỚM ĐỂ CẦM TÔI Ở LẠI NHÀ
Có vài lần tôi được giấy của nhà cầm quyền địa phương xin Hội thánh tổ chức “cầu nguyện cho chiến sĩ trận vong”. Nhưng lần nào nhà cầm quyền cũng chỉ đến dự bên nhà thờ Công giáo mà thôi. Có lẽ họ biết Tin lành chỉ cầu nguyện cho người đang sống chớ không cầu hồn cho người đã chết như bên Công giáo.
Một ngày kia, ông Chủ quận cũng gởi giấy đến yêu cầu tôi tổ chức cầu nguyện cho “Chiến sĩ trận vong”. Tôi nhận lời và nghĩ rằng chắc không ai đến dự như những lần trước. Vả lại, ngày cầu nguyện là ngày thứ năm, ngày đó tôi và ban thăm viếng phải đi thăm tín hữu. Nên sáng sớm ngày hôm đó, tôi mời tín hữu ở gần đến nhóm cầu nguyện, định ý sau đó, tôi sẽ đi thăm viếng. Vừa cầu nguyện xong, tôi và anh Chấp sự Hội thánh dẫn xe đạp đi ra. Lúc bấy giờ độ 9 giờ sáng. Vừa ra tới cửa là gặp ngay một quân nhân Pháp. Người nói: Tôi là tín hữu đến dự nhóm cầu nguyện. Chúng tôi trở vào nhà nói chuyện để làm quen.
Sau vài chục phút, chúng tôi bước vào nhà thờ khỏi sự hành lễ. Thì thình lình hai xe nhà binh chở đầy người ngừng lại trước cửa. Có Quan Ba, quan Tư bước xuống cùng với viên Chủ quận, làng và lính gần năm, sáu chục người. Tôi đọc Kinh thánh sách I Timôthê 2:I-2 rằng: “Hãy cầu nguyện cho các Vua, cho hết thảy bậc cầm quyền để chúng ta được lấy đều nhơn đức và thành thật mà ở đời cho, bình tịnh và an ổn”. Tôi nhờ ông Quận trưởng thông dịch giùm bài giảng ứng khẩu của tôi ra tiếng Pháp.
Khi cuộc nhóm họp xong, tôi ngồi nghĩ lại tự sự vừa qua. Lòng rất cám tạ ơn Chúa, vì chính Ngài có sai một quân nhân Pháp đến sớm hơn một giờ để cầm tôi ở lại nhà thờ. Nếu buổi sáng hôm đó, nhà cầm quyền địa phương đến đông như thế mà tôi không có ở nhà để tổ chức cầu nguyện như lời họ đã yêu cầu, vì tôi cũng đã hứa, thì nhà cầm quyền có thể than phiền; rồi tôi cũng không biết phải trả lời làm sao với họ và có thể bị xấu hổ vì không giữ đúng lời hứa. Nên mỗi khi tôi nhớ lại sự này, miệng tôi luôn cám tạ ơn Chúa về sự lo liệu của Ngài rất diệu kì! Thật Chúa là Đấng biết trước tất cả mọi sự để giúp đỡ tôi làm xong được một trách nhiệm khá quan trọng mà tôi không ngờ trước được, một sơ sót có thể thật tai hại. Cám tạ ơn chăm sóc thật vẹn toàn của Cứu Chúa đối với chức vụ chúng tôi.
CẦU NGUYỆN CHO MỘT NỮ PHÁP SƯ TIN CHÚA
Một ngày kia, tôi đến thăm nhà một ông thầy thuốc, gặp một bà đến đó chữa bệnh. Tôi nói về tình yêu thương của Cứu Chúa Jê-sus cho bà, và bà có vẻ rất quan tâm. Bà tự giới thiệu tên là Cam, Nữ pháp sư có quyền trừ tà ma và có độ 300 bổn đạo theo bà. Nhà bà có cả thảy 7 bàn thờ, nhang đèn cháy suốt ngày đêm, bổn đạo đến cúng hiến, lợi tức cũng khá nhiều. Bà hỏi tôi nhiều câu và cuộc nói chuyện kéo dài hơn 2 giờ. Sau đó, bà hẹn ngày trở lại để đàm luận thêm.
Thật đúng y như lời hẹn, tuần sau Bà trở lại đàm luận, và việc đó cứ tái diễn như thế được 4 lần. Rồi một lần kia, bà đến xin tôi cho viếng nhà thờ. Bà ngó trước, ngó sau, ngó cả bàn ghế như có nhiều suy nghĩ… Đoạn, bà hỏi tôi vài câu trước khi xin tôi cầu nguyện cho bà tin Chúa. Kế đó, bà kể chuyện: “Tháng rồi tôi có thấy một điềm chiêm bao rất lạ lùng, có một Đấng mặc đồ trắng, mặt sáng lòa dẫn tôi đi vào trong một căn nhà có bàn ghế giống như trường học. Đoạn, Đấng ấy kêu tôi “hãy quì xuống cầu nguyện thì được cứu.” Cả tháng nay, tôi suy nghĩ nhiều lắm và hôm nay, tôi vào xem nhà thờ đây sao giống trong cảnh chiêm bao tôi quá! Nhứt là không có hình tượng nào như ở Chùa hay là như ở nhà thờ Công giáo mà tôi có vào để quan sát.
Sau khi nhơn danh Đức Chúa Jê-sus cầu nguyện cho bà và dạy bà cách cầu nguyện với Chúa, tôi cắt hết thảy giây bùa phép đeo trên cổ, trên tay. Tuần sau, bà đi nhà thờ dẫn theo con và cháu chừng 6 người xin tôi cầu nguyện tin Chúa. Bà rất sốt sắng đi đây đó làm chứng về quyền phép Chúa Jê-sus, ai nấy trong làng hết sức ngạc nhiên về Đạo Chúa! Trong số bổn đạo của bà sau đó có độ 5 người tin Chúa; còn bao nhiêu người khác thì chống đối bà kịch liệt! Nhưng bà vui vẻ, yêu thương hết lòng làm chứng về quyền năng của Cứu Chúa cho họ.
Bà sốt sắng trong đức tin được vài năm, rồi sau đó, bà nhóm lại ít hơn và mỗi lần nhóm lại là bà lại ngủ gục, không thể nghe giảng được. Bà nói: “Tôi có chứng bệnh ngủ; nhiều người cũng bệnh như tôi vậy”.
Một buổi sáng Chúa nhật kia, tôi mời bà vào nhà riêng để cầu nguyện cho bà hết bệnh ngủ gục. Bà cầu nguyện và khóc lóc, xưng tội vì bị cám dỗ chơi cờ bạc. Sau đó tôi nhơn Danh Chúa Jê-sus cầu xin Chúa cứu bà khỏi chứng bệnh ngủ. Thật cảm tạ ơn Chúa, từ đó về sau, bà nghe giảng rất chăm chú như trước, bệnh buồn ngủ không còn nữa và bà đã giữ được đức tin cho đến ngày về nước Chúa!
ĐỦ TIỀN TRẢ NỢ
Khi chúng tôi cất căn nhà ở Long Thành, có vay số tiền 20.000 của một người bạn chưa tin Chúa. Chúng tôi hứa chắc trong danh dự, ngày nào người cần là chúng tôi sẽ hoàn lại. Ít tháng sau, khi chúng tôi được đổi đến Hội thánh Bình Hòa Phước. Người nầy gởi thơ cho chúng tôi hay, người cần lấy tiền lại nội trong một tháng. Chúng tôi trả lời là sẽ trả đúng hẹn. Gần đến ngày hẹn mà chúng tôi chưa lo được tiền, nên hết sức bối rối vì mình là tôi tớ của Chúa, đã hứa chắc với bạn trong danh dự, thì không nên sai lời hứa. Chúng tôi tha thiết cầu xin ơn Chúa giúp đỡ cách nào lo được tiền để trả cho người.
Đúng ngày hẹn, tôi xách cái cặp không tiền ra đi đến nhà chủ nợ. Ngồi trên chiếc xe đò gần suốt ngày, tôi luôn hướng về Cha Thánh, xin sự giúp đỡ của Cứu Chúa.
Cám tạ ơn Chúa, chính Ngài đã lo liệu mọi việc xong mà tôi chưa biết. Tới Long Thành, ghé lại nhà em tôi để thăm. Khi gặp nhau, em tôi nói mau lẹ: “À, anh, hôm qua có người đến yêu cầu em xin mướn căn nhà để mở tiệm cơm, chịu đưa cho em 20,000 trước. Anh tính sao?”
Mừng quá! Tôi cám tạ ơn Chúa và đến ngay người muốn mướn nhà, làm giao kèo, nhận 20,000 đồng và đem liền đến nhà chủ nợ để trả xong số nợ ấy đúng hẹn. Thật cám tạ ơn Chúa đã giúp tôi giữ được lời hứa với bạn, và cũng trả xong được số nợ khá lớn đối với tôi lúc bấy giờ.

Hình Chụp ở Long Thành Với Cha mẹ là Ông Bà Nguyễn Văn Bộ, em là Nguyễn V. Phò, với 2 con là Duy Tân và Ân Huệ
CHƯƠNG BẢY:
THOÁT NẠN TẠI HÒA NINH
CHIẾC ĐÒ MÁY ĐẦY NGUY HIỂM
Đầu năm 1955, chúng tôi được đổi đến Hội thánh Hoà Ninh. Khi tới Vĩnh Long gia đình chúng tôi tạm trú một đêm tại nhà thờ. Sáng hôm sau, chúng tôi xuống bến đò đi Bình Hòa Phước vì bấy lâu chỉ nghe tên Hội thánh Bình Hòa Phước chớ chưa nghe Hội thánh Hòa Ninh (Hòa Ninh là ấp, Bình Hòa Phước là làng, cách nhau độ 10 cây số). Chuyến tàu đò hôm ấy rất là nguy hiểm vì người đi quá đông nên đò thật khẩm. Khi ra gần giữa sông bị sống lớn, đò mấy lần nghiêng ngửa, thiếu điều bị lật. Chúng tôi hốt hoảng cầu xin Chúa cứu và bảo vệ để chiếc đò khỏi bị chìm! Cám ơn Chúa. Đò vừa qua sông là chết máy. Nếu chết máy lúc giữa sông chắc bị chìm!
Sau một hồi sửa chữa, đò lại tiếp tục đi dọc theo một khúc sông lớn rồi vào sông nhỏ. Kế lại, phải ra đi dọc theo sông lớn một lần nữa. Lần này tuy không ra khơi, nhưng không kém phần nguy hiểm vì hôm ấy gió rất mạnh, sóng lượn to mà đò lại chở đầy. Gia quyến chúng tôi có 4 con nhỏ, vợ tôi cũng không biết lội. Nếu rủi ro đò bị lật chìm, dù ở gần bờ cũng là nguy hiểm. Chúng tôi cầu xin Chúa cứu giúp cách nào cho qua được những cơn sóng lớn. Cảm tạ ơn Chúa, sự can thiệp của Chúa rất kì diệu! Liền sau đó, chiếc đò bị hư máy lần nữa, lần này ngừng nổ luôn, phải cập sát vào mé bờ để chống đi lần lần. Đò đi sát bờ nên chúng tôi bớt lo được phần nào. Nhưng chúng tôi hơi bối rối vì đã biết mình đi lộn đò. Hơn nữa, đứa gái nhỏ của chúng tôi đang bị sốt, nhiệt độ khá cao, và bụng ai nấy cũng bị đói vì xuống đò lúc 11 giờ trưa mà đã đến 3 giờ chiều, đò đi chưa tới bến.
SỰ GẶP GỠ BẤT NGỜ
Cám ơn Chúa, Ngài khiến cho người chống đò đậu nghỉ đúng vào một bến kia. Khi đò đậu ở đó được vài phút thì trên nhà có một bà cụ đi xuống thấy chúng tôi. Bà nhìn một hồi rồi hỏi: “Thầy đi đâu?” – “Tôi là Thầy giảng đạo mới đến Hội Thánh Hòa Ninh.” Bà liền hỏi: “Sao thầy không đi đò Hòa Ninh?” Khi đã biết chúng tôi đi lộn đò, bà liền ân cần mời chúng tôi lên nhà nghỉ và hứa đưa chúng tôi đến Hội thánh, vì con rể của bà là Thư ký của Hội thánh. Mừng quá! Nhờ vậy, chúng tôi có cơm ăn, có thuốc cho con chúng tôi uống, và được đưa đến Hội thánh trong ngày đó.
Bài học lộn đò kể như quá đắt! Có thể trả giá bằng mạng sống cho cả gia quyến. Nếu không có Đức Chúa Trời phù hộ đưa dùm qua cơn sóng gió nguy hiểm và cho tấp vào đúng chổ, thì khó được an toàn cho sinh mạng! Từ đây về sau, chúng tôi đi đâu, làm gì, đều suy nghĩ rất cẩn thận và cầu xin Chúa chỉ dẫn, vì sợ lạc đường cũng như sợ sai ý Chúa.
ƠN CHÚA CỨU KHỎI BỊ CƯỚP
Ở Hòa Ninh được 1 năm, thì có nạn cướp xảy ra. Chúng đánh cướp xóm làng gần như mỗi đêm. Chúng thường vào nhà, lôi người ra tra khảo, lấy đinh ngoái vào lỗ tai để đòi tiền. Cả làng, từ giàu đến nghèo, hễ đêm đến thì mạnh ai nấy tìm chỗ trú ẩn. Gặp những đêm mưa gió, thật khốn khổ cho dân làng! Loạn cướp xảy ra vài tháng như vậy hết sức khủng khiếp! (Cả làng ai cũng biết rõ họ là những quân nhân ở bót Bình Hòa Phước, dưới quyền tên cai tổng ác ôn, ban đêm đi tuần rồi lợi dụng cướp phá xóm làng!)
Về phần chúng tôi thì chẳng biết đi đâu và phải làm gì, chỉ cầu xin Chúa bảo vệ. Một đêm kia, bọn lính cướp này đến kêu cửa nhà tôi lúc 12 giờ khuya. Đã dự biết chúng là bọn cướp, tôi không mở cửa và nói: “Lúc này có nhiều cướp, tôi khó phân biệt chân giả. Vậy các ông là lính tuần thiệt, xin mời sáng mai trở lại đây nói chuyện hoặc tôi sẽ đến bót.” Sau khi nghe tôi nói vậy, chúng nó bước ra sân ngồi thảo luận. Chúng tôi lắng tai nghe một tên đề nghị: “Phá cửa vào đi.” Nghe vậy chúng tôi hoảng sợ, quỳ gối xuống cầu xin sự giải cứu từ cánh tay quyền năng của Đức Chúa Trời (Thật sự chúng tôi không sợ mất tiền bạc, của cải, nhưng sợ chúng tra khảo tàn nhẫn như đồng bào đã kể lại). Chúng nó cứ ngồi đó bàn luận gần 2 tiếng đồng hồ mới chịu bỏ ra đi. Thấy bọn chúng xuống ghe đi, chúng tôi mới thở được một hơi thở nhẹ nhàng, và cảm tạ ơn Chúa đã xô đuổi, khiến chúng nó sợ mà không dám phá cửa.
Sáng hôm sau, chúng tôi chưa biết tính lẽ nào, thì Chúa sai một người cùng xóm ghé nhà chúng tôi báo tin rằng: “Tôi có nghe những lính tuần hỏi thăm Thầy lãnh lương được bao nhiêu.” Nghe vậy, chúng tôi biết bọn chúng đã có ý đến nhà chúng tôi. Chắc chắn thế nào bọn chúng cũng sẽ trở lại. Chúng tôi cùng hiệp chung cầu nguyện, xin ý Chúa soi dẫn. Đoạn, chúng tôi sửa soạn đồ đạc vào các va li và nhờ một anh em tín hữu đem ghe đến chở dùm qua Vĩnh Long và dặn người đó đậu ghe tại Cầu Kinh Cụt chờ chúng tôi tại đó. Đến 6 giờ chiều, chúng tôi đi đò máy qua Vĩnh Long và đến ngay chỗ hẹn nhưng không thấy ghe. Khi tìm gặp, chúng tôi hỏi: “Sao đậu ở đây?” Người ấy trả lời: “Nước ở Cầu Kinh chảy mạnh quá, không đậu được nên tôi bị trôi dần xuống đây.” Lúc bấy giờ là 7 giờ tối và anh chèo ghe chưa biết tính lẽ nào. Thình lình, có một ông cụ từ nhà gần đó đi xuống hỏi: “Các ông đi đâu?” Tôi trả lời: “Chúng tôi ở Hòa Ninh chạy cướp qua đây, ông có biết nhà nào cho mướn không?” Người liền trả lời: “Có một nhà gần đây cách chừng vài trăm thước.” Mừng quá! Tôi liền theo ông cụ ấy đến mướn được nhà, đoạn, dọn đồ lên nội trong giờ đó. Thật cảm tạ sự chỉ dẫn của Chúa và sự dự bị sẵn của Ngài cho một căn nhà cách mau lẹ như vậy. Nếu không, chắc cũng phải gặp thêm nhiều khó khăn, cực nhọc trong hoàn cảnh của đêm ấy!
Sáng hôm sau, anh tín hữu ở ngang cửa nhà thờ đến cho chúng tôi hay: “Thầy ơi! Thầy có phước quá! Bọn cướp đêm hôm qua đến rất đông, cạy cửa nhà thờ và tư thất, lục soát đồ đạc lâu lắm, chúng mới chịu bỏ đi.” Chúng tôi nghe vậy, lớn tiếng cảm tạ ơn Chúa là Đấng biết trước tất cả mọi sự nên dẫn dắt chúng tôi ra đi kịp thời và đúng lúc. Khi chúng tôi ở trong tay bọn cướp, thì Chúa khiến chúng lưỡng lự; lúc bọn cướp quyết định thì Ngài dẫn chúng tôi đi khỏi kịp thời, trước giờ chúng hành động chừng 6 tiếng đồng hồ, để khỏi sa vào tay bọn chúng. Thật cảm tạ ơn Chúa, chúng tôi nhận biết mình là những tôi tớ hèn mọn của Chúa, nhờ nương tựa vào Ngài nên mới được phước, vì trong hoàn cảnh ấy, nếu không có Chúa phù hộ, thì sự nguy hiểm khó có thể vượt qua. Như tác giả Đa vít, người từng trải trên đường dẫn dắt của Chúa đã nói: “Đức Chúa Trời ơi! Xin phù hộ tôi, tôi nương náu mình nơi Chúa… trừ Chúa ra tôi không có phước nào khác.” Trong cơn gian truân, họ kêu cầu cùng Chúa, Ngài bèn giải cứu họ khỏi đều gian nan. Chúa sẽ gìn giữ người khỏi tai họa, Ngài sẽ gìn giữ người khi ra, khi vào.” (Thi Thiên 16:1-2, 107:6, 121:7).
ƠN CHÚA CỨU VỢ TÔI QUA CƠN NGUY VÌ NẠN SÓT NHAU LÁ
Đang khi chúng tôi tị nạn cướp tại đây, vợ tôi đang có thai được 8 tháng. Căn nhà chúng tôi đang mướn ở là nhà có người đã bị chết trong khi sanh con nên bị bỏ trống khá lâu, không ai dám mướn vì có tiếng đồn có quỷ hiện hình. Bà con trong xóm thấy vợ tôi có thai gần ngày sanh lấy làm thương hại cho số phận nên hỏi: “Thầy cô không sợ ma quỉ sao mà dám ở trong nhà này có người sanh đã chết?” Tôi trả lời: “Chúng tôi không sợ vì tôi là Thầy giảng đạo Tin lành, tôi có thể “nhơn danh Đức Chúa Jê-sus” đuổi quỷ. Nghe vậy, nên đồng bào trong xóm để ý coi đến ngày vợ tôi sanh sẽ như thế nào?
Đến tháng sau, vợ tôi gần sanh tôi phải đi nhóm Hội đồng Tổng Liên ở Gia Định. Lòng rất e ngại, nhưng tôi hy vọng sẽ về kịp lúc vợ tôi chưa sanh. Sau khi dự Hội đồng trở về, vợ tôi đã vào nhà thương sanh được một trai đã 4 ngày, mọi sự đều bình an. Cảm tạ ơn Chúa. Nhưng khi vợ tôi về nhà thì thình lình hôm đó cảm thấy trong bụng hơi đau. Chúng tôi chẳng biết chi nên hiệp chung cầu nguyện. Sau đó, ít phút thì cái nhau lá rất lớn tuột ra. Chúng tôi đem cho mụ xem. Đó chính là cái nhau lá còn sót trong bụng đã hơn 4 ngày. Thật cảm tạ ơn Chúa. Sự thương xót của Đức Chúa Trời đối với chúng tôi thật lớn lao. Nếu mụ biết sót lúc mới sanh chắc phải móc ra. Mà ai là người bị móc một lần, mới biết sự đau đớn, không có bút mực nào tả xiết! Khi móc xong, nghe nói nếu rủi sót một miếng nhỏ cũng đủ làm chết mạng người. Chúng tôi rất cảm tạ ơn lớn lao của Chúa và có thể nói như tác giả Thi Thiên rằng: “Hễ tôi còn sống chừng nào thì tôi sẽ hát xướng cho Đức Chúa Trời tôi chừng ấy”.
“Vì Chúa thương xót chúng tôi khác nào Cha thương xót con cái mình vậy” (Thi Thiên 146:2, 103:13)
ƠN CHÚA CỨU TÔI THOÁT NẠN MÔ TÔ
Một ngày kia, tôi đi xe gắn máy trên đường từ Bến Bắc Mỹ Thuận về Vĩnh Long. Khi còn cách chợ Vĩnh Long 2 cây số. thình lình một chiếc xe nhà binh lớn từ phía sau chạy tới, tránh xe qua mặt bên kia thế nào mà nó ép sát gần tôi. Hốt hoảng, tôi quẹo lên lề. Nhưng cũng bị xe nhà binh quẹt bánh xe sau một cái thật mạnh, đến nổi tôi nhào lộn lên và té ngồi xuống! Nhưng cảm tạ ơn Chúa, tôi cảm thấy mình tôi rơi xuống cách nhẹ nhàng, chẳng bị chút thương tích nào cả. Thật là sự bảo vệ lạ lùng của cứu Chúa. Nếu tôi bị té vô phía xe hơi chắc nguy hiểm đến tính mạng hoặc lách vô lề không kịp cũng bị đụng nát xe và người, nên dù bị quẹt té nhưng chắc Chúa đã sai thiên sứ đỡ cho được an toàn. Thật cảm tạ ơn Chúa. “Vì Chúa gìn giữ con cái Ngài như con ngươi mắt Ngài” (Xachari 2:8b, Thi Thiên 17:8).
THOÁT KHỎI SỰ ĐÒI BỒI THƯỜNG NHƠN MẠNG
Một ngày kia, lúc 6 giờ chiều, một người lân cận ẵm đếm một em bé độ 3 tuổi xin tôi ít viên thuốc cho đứa bé uống vì nó bị sốt đã lâu. Bà nói: “Xin thầy làm ơn biết thuốc chi cho nó uống đỡ.” – “Nó có ăn uống chi không?” – “Không. Nó không ăn chi cả.” Tôi rờ đầu cháu, biết đang nóng và có vẻ thở mệt. Để ngừa sưng phổi, tôi liền đưa cho bà vài viên Thiazomides và dặn về uống đỡ rồi sáng mai phải ẵm nó ra cho thầy thuốc xem.
Vài giờ sau, vợ chồng ông ấy ẵm đứa bé chạy lại khóc lóc và la ó dữ dội: “Ông cho thuốc chi mà con tôi vừa uống vào là gần chết! Ông thấy nó không? Nó chết là ông phải đền nhơn mạng!”
Chúng tôi hết sức bối rối, chẳng biết tính lẽ nào vì thấy đứa bé mặt mày tái xanh và như thở không được, sự chết trong giây phút là cầm chắc. Chúng tôi thầm cầu nguyện, xin cánh tay Chúa can thiệp cứu dùm đứa bé để giúp chúng tôi khỏi nạn. Đoạn, tôi hỏi ông bà có cho nó ăn chi không? – “Nó không ăn chi cả, chỉ uống thuốc ông cho đó thôi.” – “Ông bà phải nói thiệt đừng giấu tôi đều chi, tôi mới cứu nó được.” Ông ấy ngó vợ một vài giây, rồi ngập ngừng nói: “Nó có ăn chút cháo và năm, bảy miếng thịt vịt gì đó.” Tôi hiểu nay chứng bệnh và cầu xin Chúa chỉ dẫn tôi cần cho bé uống chi. Chúa nhắc tôi nhớ lại người bệnh giống như trường hợp nầy mà tôi có thấy tại Long Thành, nhờ uống muối nên ói ra được mà thoát chết. Tôi liền hối vợ tôi vào nhà lấy muối quậy với nước đem ra. Tôi cạy họng nó ra đổ nước muối, bé liền ói ra cả cháo lẫn thịt vịt còn nguyên miếng. Đứa nhỏ thấy tỉnh lại rỏ ràng. Mừng quá! Tôi liền cho nó uống thêm một chút rượu Rhum. Sau đó, đứa nhỏ khỏe lại, kể như thoát chết! Cha mẹ đứa nhỏ vui vẻ ẵm con về, nhưng không có lời nào cám ơn. Chúng tôi cũng thở được nhẹ nhàng thấy mình thoát nạn, cảm tạ ơn Chúa, nếu đứa nhỏ chết trong trường hợp này, chắc chúng tôi không tránh khỏi sự khó khăn. Nào bị cha mẹ đứa bé kêu bồi thường nhơn mạng, cũng như những người vô tín xung quanh xóm lợi dụng tình thế xúi giục. Đây là bài học yêu thương có thể bị trả một giá đắt. Nhưng Đức Chúa Trời không phải là không biết mọi sự kiện phản trắc đã xảy ra nên Chúa có can thiệp, cứu giúp để chúng tôi được thoát nạn! Thật đáng ngợi khen Chúa! Ha lê lu gia.
CHƯƠNG TÁM
HƠN 14 NĂM PHỤC VỤ CHÚA Ở NAM VANG
ƠN CHÚA ĐƯA ĐƯỜNG ĐẾN HỘI THÁNH NAM VANG RẤT DIỆU KỲ.
Đến đầu tháng mười, năm 1956, chúng tôi được ông chủ nhiệm, Mục sư Trần Xuân Hỷ cho hay chuẩn bị đi Nam Vang.
Chúng tôi đi xin giấy tờ xuất dương xong. Nhưng có một việc khó là chiếc xe gắn máy và bàn máy may phải có giấy phép mới được đem theo. Tôi đến sở xin, nhưng nhân viên lo việc nầy nói không thể nào được, vì có lịnh cấm mang xe gắn máy ra ngoại quốc. Tôi ra về cách lưỡng lự và lo lắng. Tôi đứng lại thầm nguyện, xin Chúa giúp cho cách nào để có thể đem xe theo được. Đoạn, tôi trở lại yêu cầu một lần nữa. Bấy giờ cũng nhân viên ấy lại vui vẻ nói: “Chỉ có ông Giám đốc mới quyết định được.” Người đem đơn vào rồi trở ra nói: “Ông Giám đốc trả lời: được.” Thật cảm tạ ơn Chúa, đã khiến cho người nhân viên vui lòng giúp tôi được việc.
Sáng hôm sau, tôi lên thăm Hội Thánh Long Thành gặp một người quen, nghe tôi sắp đi Nam Vang, liền trao cho tôi 200 Ria (tiền Cao miên) nhờ xài dùm. Tôi lấy 200 bạc Việt Nam đổi lại cho người. Lại nữa, cầm ba giấy thông hành, tôi ra sở Hối đoái đổi tiền được 1,200.00 Ria. Như vậy, ngày chúng tôi bước lên xe đò đi Nam Vang, trong túi có cả thảy được 1,400.00 Ria.
Khi tới Biên giới, tôi đem giấy tờ trình cho nhân viên quan thuế Cao miên. Họ định thuế chiếc xe gắn máy và bàn máy may là 4,500.00 Ria, quá số tiền trong túi hiện có. Tôi nài xin họ bớt nhưng không được. Bước ra ngoài, lòng đương bối rối, tôi cầu xin Chúa phù hộ và xui giục nhân viên quan thuế chịu giảm bớt cho ít nhiều để tôi có đủ tiền đóng. Đoạn tôi trở vô, tôi kêu nài là không có đủ tiền để đóng thuế, xin vui lòng bớt cho. Người thu thuế lấy viết tính một chút rồi nói: “2,500.00 Ria.” Tôi ra hỏi người tài xế mượn thêm tiền để đóng, lúc tới Nam vang sẽ trả lại. Nhưng anh ta móc bóp ra chỉ còn vài trăm nên không đủ. Tôi thầm nguyện xin Chúa giúp tôi trở vô kêu nài bớt một lần nữa. Đoạn, tôi bước vào văn phòng xin người thu thuế coi lại giấy tờ vì xe cũ và máy may cũng cũ. Người lấy viết tính lại rồi trả lời: “1,250 Ria.” Mừng quá! Tôi móc tiền ra đóng liền và miệng nói cảm tạ ơn Chúa.
Ra ngoài bà con hành khách thường đi mua bán trên con đường này nói: “Thầy Hai có phước quá! Hôm nay Thầy gặp ông ốm tử tế. Nếu Thầy gặp thằng cha mập mà kêu nài tới lui, nó nạt nộ, lại còn tăng thêm tiền thuế nữa là khác. Mỗi người làm việc một ngày, hôm nay tới phiên ông mập mà sao ông ốm lại làm. Vậy Thầy Hai có phước.” Chúng tôi nghe vậy, càng thêm lòng tạ ớn Chúa vì biết có bàn tay Đức Chúa Trời sắp đặt trước nên mới được vậy. Thật cảm tạ ơn Chúa.
Chiếc xe đò chúng tôi tiếp tục đi, chạy cách chậm chạp vì đường xấu, lại thêm hư máy mấy lần ở dọc đường phải dừng lại để sửa, nên khi tới thành phố Nam vang là đã vào 10 giờ đêm, dưới cơn mưa tầm tả! Tôi liền đi mướn một chiếc xe chở đồ đưa đến nhà thờ giá 150 Ria, đúng y số tiền còn lại trong túi, không dư cũng không thiếu. Thật cảm tạ ơn Chúa đã dự bị đúng số tiền để trang trải cách diệu kỳ.
Đường đến nhà thờ chỉ vài ba cây số nhưng vì đường không cán đá; lại gặp mưa lớn nên xe bị lún khó chạy. Hơn nữa, người tài xế cũng không biết nhà thờ ở đường nào nên chạy vòng vòng mãi mà không tìm được. Người ngừng nghỉ một chút. Ngó vào một nhà kia thấy ánh đèn leo lét tôi bước vào nhà để hỏi thăm, cũng may gặp một người Trung hoa biết tiếng Việt. Người nói nhà thờ gần đây nhưng khó chỉ vì đường không có tên. Ban đầu người tỏ vẻ lưỡng lự một chút, đoạn xách áo mưa lên xe đi với chúng tôi để chỉ giùm đường. Khi tới nhà thờ, người lội bộ về nhà dưới cơn mưa lớn, đường xá sình lầy lúc đêm khuya gió lạnh. Chúng tôi hết sức cám ơn người và cảm tạ ơn Chúa đã dự bị cho đủ tiền để trang trải và hơn nữa, lại gặp người tử tế sẵn lòng dẫn đường lúc đêm khuya mưa gió để giúp chúng tôi đến nhà thờ sớm để nghỉ ngơi, vì suốt cuộc hành trình chúng tôi và 3 con nhỏ đã quá mệt nhọc. Thật cảm tạ ơn Chúa về sự đưa đường dẫn lối của Ngài rất lạ lùng. Như Chúa đã hứa cùng Gia-cốp: “Nầy, Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó; vì Ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi Ta làm xong những điều Ta đã hứa cùng ngươi.” (Sáng 28:15). Cũng như tác giả Đa-vít, người đã từng trải trên đường đi với Chúa đã nói: “Hãy phó thác đường lối mình cho Chúa và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành mọi việc” (Thi Thiên 37:5).

(Hình nhà thờ Nam Vang và tư thất năm 1956)
ƠN CHÚA CỨU KHỎI BỊ TRỤC XUẤT LÚC MỚI TỚI HỘI THÁNH NAM VANG
Đến Hội thánh Nam Vang được vài ngày thì phải khởi sự lo ngay giấy kiều ngụ. Tôi đến nhờ ông Sechrist, Hội trưởng Hội Truyền giáo Cao miên lo giùm. Ông sẵn lòng dẫn tôi đi từ văn phòng nầy đến văn phòng kia; chỗ nào cũng bị nhà cầm quyền từ chối, vì lẽ trong giấy chiếu khán thông hành của chúng tôi nhà cầm quyền Việt Nam ghi chữ: “Aller seulement” (chỉ đi mà thôi) chớ không có chữ “Retour” (trở lại). Họ nói đây là giấy trục xuất nên không chấp thuận cho chúng tôi kiều ngụ. (Thật ra lúc bấy giờ người Cao miên nghiêng về Cộng sản nên họ ghét người Mỹ cũng như người Việt, họ không muốn cho người Việt đến xứ của họ nữa, nếu có thể đuổi đi được càng tốt). Như thất vọng, ông Sechrist nói: “Tôi có một đứa gái lớn học ở Đà lạt về chơi nhưng cũng không xin ở lại được.”
Chúng tôi trình cho Hội thánh biết sự việc hết sức khó khăn để Hội thánh hiệp chung cầu nguyện, xin Chúa tỏ ra cách giải quyết thế nào. Vài tuần sau, anh em trong Ban chấp hành Hội thánh đến báo tin cho chúng tôi: “Có lệnh nhà cầm quyền ra thông báo, những người Việt Nam nào ở Cao miên, dù bao nhiêu năm trốn tránh vì không có giấy tờ hợp pháp, nay người nào ra khai tên sẽ được cấp cho giấy tờ ở lại; vì đây là một ơn huệ của Chánh phủ.” Anh em rất vui mừng và thúc giục chúng tôi ra khai tên như đồng bào, vì có rất đông người ra khai nhận mình bấy lâu nay kiều ngụ bất hợp pháp. Chúng tôi không chấp nhận đề nghị của BCH HT vì nghĩ rằng: Chúng tôi là tôi tớ Chúa đến xứ này để giảng đạo phải là người hợp pháp; chớ không phải như người bất hợp pháp bấy lâu trốn tránh như một số kiều bào. Anh em cố thuyết phục rằng tôi phải chấp nhận đường lối duy nhất đó chớ không còn đường lối nào khác. Nhưng tôi trả lời: “Chắc Đức Chúa Trời sẽ có một đường lối hợp pháp nào khác để giúp chúng tôi.”
Tuần sau, có thông cáo mời hết thảy những kiều bào nào đã khai tên hãy đến sở lăn tay lãnh giấy. Đã có hàng trăm người ra đến sở từ sáng sớm cách vui vẻ để chờ lãnh ơn huệ. Thì hỡi ôi! Thình lình những người vô phước này bị cảnh sát mời lên xe và chở họ về phía biên giới để đuổi họ qua bên kia biên giới Việt. Họ ra đi bỏ lại nhà cửa, con cái khóc lóc thảm thiết. Kết quả của ơn huệ nhà cầm quyền Cao miên là như thế đó! Cám ơn Chúa. Nếu Đức Chúa Trời không cho tôi bản tánh biết tự trọng danh dự của người hầu việc Chúa, nghe lời anh em chỉ dẫn, chịu nhận mình là người bất hợp pháp để xin giấy kiều ngụ kiểu ơn huệ đó, chắc ngày hôm ấy đã bị trục xuất cách nhục nhả như kiều bào.
Sau việc này, chúng tôi nhận thấy việc xin ở lại hợp pháp rất khó khăn, nếu không có bàn tay Đức Chúa Trời can thiệp thì chắc không thể nào ở lại Nam vang truyền giáo được, nên chúng tôi đề nghị với Hội thánh hiệp chung với chúng tôi cầu nguyện đặc biệt.
Kế đó, có người giới thiệu ông Sơn Phước Thọ cho tôi, hiện đang làm Tổng trưởng Thông tin là người kể như có ít nhiều thiện cảm với người Việt lúc bấy giờ, vì ông là người sinh tại xứ Việt. Tôi liền đến thăm ông tại tư gia vào lúc ban đêm, có cầm theo quyển Kinh thánh để biếu. Ông rất vui vẻ nhận Kinh thánh và mời tôi sáng hôm sau đến Bộ thông tin nói chuyện thêm về việc giấy kiều ngụ.
Sáng hôm sau, tôi đến Bộ thông tin để nhờ chỉ dẫn đường lối xin giấy. Khi đã được ông chỉ dẫn rành rẽ và cho vài lời giới thiệu, tôi liền đến Bộ Nội vụ nạp được đơn. (Lúc bấy giờ tôi chỉ đi một mình chớ không muốn mời Giáo sĩ, vì tôi biết người Việt đang bị người Miên không ưa, nếu có Giáo sĩ Mỹ nữa là thêm một mối cho họ ghét, vì họ ghét cả Mỹ lẫn Việt).
Tuy đã nạp được đơn nhưng chúng tôi cũng chưa biết sự việc thực tế sẽ ra như thế nào? Cám ơn Chúa đã cho tôi may mắn, chiều lại tôi gặp người thâu đơn lại là một người ở gần nhà thờ. Mừng quá! Tôi chạy đến thăm và làm quen. Người hứa giúp cho tôi được gia hạn. Thật cám ơn Chúa. Chúng tôi được gia hạn một tháng, rồi sau đó được ba tháng. Nhưng sau ba tháng, thì nhà cầm quyền không cho chúng tôi được gia hạn thêm nữa mà trái lại còn thu hết giấy tờ và cấm chúng tôi không được ra khỏi nhà. Nhận biết họ muốn trục xuất chúng tôi vì tình hình chính trị Cao miên lúc bấy giờ đang nghiêng hẳn về khối Cộng, nên dường như họ muốn cấm hết các nhà truyền giáo kiều ngụ trong xứ.
Lòng chúng tôi thật đang buồn lo và bối rối. Chúa liền nhắc cho chúng tôi nhớ câu: “Há có điều chi khó cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời không làm được chăng?” (Sáng 18:14). Gia quyến chúng tôi tha thiết cầu nguyện để xin Đức Chúa Trời là Đấng có quyền phép lớn lao can thiệp và trợ giúp giùm; chớ chúng tôi kể như đã cùng đường, chỉ chờ bị trục xuất ngày gần đây mà thôi!
Cám ơn Chúa, ơn Chúa thật rất diệu kỳ! Chính Ngài đã có đường lối của Ngài mà chúng tôi không ngờ. Sau đó ít ngày, tôi lén ra khỏi nhà để thăm một người tín đồ. Khi ghé vào nhà thì gặp một người thanh niên lạ đang ngồi chơi ở đó. Tôi khởi sự làm quen để nói về tình yêu của Chúa cho người; đồng thời cũng nói về sự khó khăn về giấy kiều ngụ bị thu hồi. Cám ơn Chúa, người thanh niên này rất tử tế. Người nói: “Tôi có thể giúp Thầy, Thầy về nhà làm đơn lại nói rõ đầu đuôi và đem lại cho tôi kịp nội trong buổi chiều này. Nói thiệt với Thầy, em gái tôi, nó là vợ nhỏ của ông Dapchoun, tổng trưởng an ninh, người có quyền cho giấy kiều ngụ. Tôi sẽ nói với em tôi đưa giùm đơn và gởi gắm Thầy cho ông ta. “Mừng quá! Tôi vội vã về nhà viết đơn và đem đến cho người thanh niên đó nội buổi chiều ấy.
Sáng hôm sau, người thanh niên ấy đến cho tôi hay, em gái người đã trao thơ và ông Dapchoun có hứa bằng long giúp. Thật cảm tạ ơn Đức Chúa Trời đã làm một việc “quá sự cầu xin hoặc suy tưởng” của chúng tôi. Tuần sau, chúng tôi được mời đến sở di trú để lăn tay và mỗi người được một giấy kiều ngụ vĩnh viễn do lệnh của tổng trưởng an ninh trực tiếp gởi đơn của chúng tôi xuống, vỏn vẹn chỉ có một tờ giấy đánh máy, chớ không có những giấy nào phụ thêm như những hồ sơ khác. Ông Cò làm giấy cho chúng tôi hết sức ngạt nhiên nói: “Trong số những người mới tới đây kiều ngụ từ mấy năm nay, ông là người thứ nhất được giấy này.” Thật vậy, có những tín hữu đã đến trước chúng tôi trên 10 năm nhưng chưa được loại giấy ấy. Cám ơn Chúa, chúng tôi biết đây là một ơn huệ lạ lùng của Cứu Chúa, vì đang khi loài người muốn trục xuất chúng tôi, thì Chúa là Đức Chúa Trời đã quyết định cho chúng tôi ở lại để phục vụ Ngài thì nhất định phải ở lại được. Mặc dù quyền con người có thể mạnh như thế nào đi nữa, thì cũng phải bị khắc phục ở dưới quyền thống trị của Chúa. Ha-lê-lu-gia. Cảm tạ ơn Chúa.
Sau hai năm hầu việc Chúa ở Hội thánh Nam vang. Tôi được sự chấp thuận của hai Ban Trị Sự Địa Hạt và Tổng Liên mời về thẩm vấn và được tấn phong Mục sư ngày 28/9/1958, tại Hội thánh Nguyễn Tri Phương. Lúc trở về Nam vang tôi nghe tin ông tổng trưởng Dapchoun làm phản bị bắn chết, còn cô vợ nhỏ Dapchoun tức là người trao đơn và gửi gắm chúng tôi cho Dapchoun đã bị bắt và sau đó tử hình; còn người thanh niên anh vợ của Dapchoun, người giúp xin giấy tờ cho chúng tôi, đã chạy trốn về Sài Gòn. Nhà cầm quyền Cao miên đang truy nã gắt gao để tìm ra phe đảng của Dapchoun. Nhận thấy chuyện nầy hết sức nguy hiểm vì hồ sơ giấy kiều ngụ của chúng tôi do ông Dapchoun ký giấy cho phép cư trú cách đặc biệt, chúng tôi rất lo lắng và âm thầm cầu nguyện, xin Chúa khiến cho những người truy tầm hồ sơ phe đảng Dapchoun không chú ý gì đến hồ sơ giấy kiều ngụ của chúng tôi. Cám ơn Chúa, sự bảo hộ của Ngài thật lạ lùng nên chẳng có sự gì xảy ra. Chúng tôi biết đây là một ơn huệ lạ lùng của Chúa, chớ lúc bấy giờ có một số kiều bào nhờ vợ nhỏ của Dapchoun xin giấy kiều ngụ đều bị bắt điều tra… Nhưng về phần chúng tôi thì vẫn được bình an dưới sự bảo vệ của Chúa như Khinh thánh sách Ê-sai đã nói: “Hễ khi dân Ngài bị khốn khó như chính Ngài bị khốn khó, vì chính Ngài đã lấy lòng yêu đương thương xót… mà ẵm bồng và mang họ trong lòng khác nào mẹ săn sóc con cái mình.” (Ê-sai 63:9 và 49:14)
(Hình Gia quyến Mục sư N.D.Xuân năm 1957, với Bà Ngoại và các con:Tân, Hưệ, Khiêm, Sang)
ƠN CHÚA CỨU KHỎI NẠN CÁO GIAN.
Thật khó cho chúng tôi, sát bên nhà thờ có một cái nhà nhỏ, trong nhà có một bà lão người Tàu lai Việt, dáng người trông dữ tợn, suốt ngày miệng chửi rủa không ngớt. Hơn nữa, bà ghét Đạo cũng như chúng tôi. Mỗi lần bà quét sân chung quanh nhà, bà la ó và chửi rủa, vì lá cây bên nhà thờ rụng rớt qua nhà bà. Chúng tôi cảm thương sự nghèo khổ và tuổi già nên chẳng dám trả lời chi.
Lúc bấy giờ trong xứ có phong trào nổi loạn. Một ngày có kẻ lén đốt nhà vài ba chỗ. Nhà cầm quyền tổ chức chữa lửa và truy tầm kẻ đốt nhà.
Một buổi chiều kia, đống rác sát hè bà bị cháy và lan qua hàng rào cây bên nhà thờ, nhưng sau đó dập tắt được. Sở mật thám đến mở cuộc điều tra. Bà liền chỉ mặt tôi nói là phe Mỹ, là người gây ra đám cháy, hoặc đốt hoặc là hút thuốc ném tàn qua. Sau đó tôi bị nhân viên an ninh điều tra sơ rồi lấy giấy tờ tôi đem đi. Cảm tạ ơn Chúa. Sau đó, tôi đến sở xin lại được giấy tờ, còn việc cháy nhà họ sẽ điều tra thêm. Sau việc này, bà ta như thắng thế nên mỗi khi đi gánh nước ngang qua nhà tôi, bà còn la ó nhiều hơn nữa. Nhưng tội nghiệp thay cho bà, vài tuần sau đó, bà bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời. Nên việc cháy nhà về sau không người đầu cáo nên được bỏ qua.
ƠN CHÚA CHO CẦU NGUYỆN ĐUỔI QUỈ.
Một buổi sáng kia, có người tín hữu đến mời chúng tôi đến cầu nguyện cho vợ người bị quỉ ám. Tóc tai bà bỏ xỏa ra, thỉnh thoảng còn cầm dao trông rất dữ tợn. Khi chúng tôi đến, thấy bà có vẻ rất mỏi mệt, nằm thở dốc và tóc xỏa ra che cả mặt mày.
Sau khi hát Thánh ca và đọc Kinh thánh. Tôi cầu nguyện và nhơn Danh Đức Chúa Jê-sus đuổi quỉ ra khỏi bà; tức thì bà ta nhào ngang qua phía bên kia, khóc lớn lên mấy tiếng rồi nằm ngủ êm suốt một ngày đêm. Sau đó, bà trở lại bình thường và đi nhà thờ vui vẻ. Thật cảm tạ ơn Chúa về quyền phép lạ lùng của Ngài. Đúng như lời Chúa Jê-sus phán: “Những kẻ tin sẽ được dấu lạ này, lấy Danh ta mà trừ quỉ.” (Mác 16:17)
ƠN CHÚA CỨU KHỎI NẠN…
Một ngày kia, tôi đi xe gắn máy từ nhà đến Thành vua Cao miên. Khi tới ngã tư tôi bóp thắng, thình lình xe bị đứt thắng. Tôi hốt hoảng đặt một chân xuống đất để hãm bớt tốc lực, nhưng chiếc xe cũng phải bị lết ra giữa lộ. Đang khi ấy, một chiếc xe nhà binh lớn chạy trờ tới ngay tôi. Xe ấy hãm bớt tốc lực nhưng vẫn còn trớn mạnh, anh tài xế phải quẹo ngang leo lên lề phía tay mặt. Tôi phải một phen khủng khiếp và cám ơn Chúa đã cứu tôi qua khỏi một cơn nguy hiểm như Kinh thánh Chúa đã phán: “Nầy, Ta sai Thiên sứ Ta đi trước mặt ngươi, đặng phù hộ trong lúc đi đường.” (Xuất 23:2). “Thiên sứ Đức Giê-hô-va đóng trại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài và giải cứu cho. Phước cho người nào nương náu mình nơi Chúa.” (Thiên 34:7;8)
ƠN CHÚA CHO BÁN ĐƯỢC NHÀ TRƯỚC THỜI HẠN BỊ PHÁ.
Chúng tôi có mua một căn nhà đúc gần trung tâm thánh phố do một tín hữu bán lại. Chúng tôi định ý mua căn nhà này để làm sản nghiệp, nhưng sau vài tháng, có một anh em tín hữu muốn mở tiệm buôn bán nên đến nài nỉ mua lại, vì chỗ tình Thầy trò nên tôi như buộc lòng phải nhường lại cho người đó.
Sau khi bán lại căn nhà ấy chừng vài tháng, thì có lệnh của Hội đồng Thẩm mỹ Đô thành gởi đến buộc phải đập phá, vì nhà đó kiến trúc không đúng bản đồ. (Bởi có sự khiếu nại của người lân cận về mái bao lơn chờm qua đất người nên mới lộ ra việc kiến trúc hai căn thành ba căn. Được biết người đứng thưa việc này là người rất có thế lực, là ông ngoại của Công chúa Bopha-Devi). Người mua cũng như người đứng ra kiến trúc phải gặp một phen khổ sở, tốn hao tiền bạc và nước mắt… Nhưng về phần chúng tôi thì an nhiên vô sự. Thật Chúa đã biết trước căn nhà phải gặp khó khăn, nếu không nói là mất hết sản nghiệp, nên chỉ dẫn giúp chúng tôi bán nhà được kịp lúc để khỏi bị chút thiệt hại nào. Cảm tạ ơn Chúa. Như sự từng trải của tác giả Châm ngôn đã dạy: “Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con. Hãy phó thác các việc mình cho Chúa, thì những mưu ý mình sẽ được thành công.” (Châm 3:6.16:3)
THOÁT KHỎI KẺ MUỐN HÀNH HUNG.
Nhớ lại, trước ngày chúng tôi sửa soạn đi Nam vang, có người thông thạo sự việc trên đó nói với chúng tôi: “Thầy Xuân đi Nam vang hả? Thầy Xuân đi Nam vang, tôi sợ ở không được 6 tháng đâu, vì những người trên đó họ khó tánh, hung dữ và đa số theo cộng sản.” Tôi trả lời: “Mấy tháng cũng được, ở không được thì trở về.”
Thật đúng như lời người quen đã nói. Sau khi đến Nam vang được vài tháng, là chúng tôi nhận thấy có sự khó khăn ngay từ trong nội bộ cũng như giữa kiều bào. Vì đa số họ theo chủ nghĩa vô thần cách sốt sắng, nếu không nói là cuồng nhiệt, nên khi họ nói chuyện với tôi nhiều người tỏ vẻ cuồng tín. Thành ra mỗi khi tiếp xúc với họ cũng khó tránh sự va chạm ít nhiều… Nhưng ở đời càng cố tránh sự va chạm lại hay gặp va chạm.
Một buổi chiều kia, có người tín hữu cho chúng tôi hay: “Mục sư ơi! Tôi không biết vợ chồng Thầy B nói gì với Thầy H mà Thầy H hăm dọa Mục sư dữ dội. Tôi báo tin cho Mục sư hay để lo liệu.” Tôi vui vẻ trả lời: “Chúng tôi đến xứ này để phục vụ Chúa, chớ có làm hại gì ai mà bị hăm dọa. Chúa không bao giờ phó chúng tôi cho kẻ dữ.” Rồi qua ngày hôm sau, cũng người tín hữu ấy đến cho chúng tôi hay một lần nữa: “Mục sư ơi! Con của Thầy H đau gì không rõ mà đêm hôm này ói máu ra mấy lần nhiều lắm, phải chở vào bệnh viện.” Sự hoạn nạn khiến người hoảng sợ nên việc cũng được tạm yên. Còn về phần Thầy B muốn chế dầu vào lửa để giục thêm việc ác, thì luật Trời cũng khiến gặp quả báo nhản tiền. Vài tuần sau, Thầy B. bị kẻ nghịch cùng xóm đánh cho cả mặt mày bầm đen như bôi lọ. Thế là Đức Chúa Trời cho cả hai học một bài học đau đớn thể xác lẫn tinh thần để họ biết ăn năn, sống trong lương thiện với mọi người. Về phần chúng tôi khi hay tin họ bị hoạn nạn, liền đến tận nhà thương thăm viếng và cầu nguyện cho họ. Như lời Kinh thánh dạy: “Vậy, nếu kẻ thù mình có đói hãy cho ăn; có khát hãy cho uống và lấy điều thiện mà báo lại cho điều ác”. (Rôma 12:20). Như Chúa phán: “Đừng chống cự kẻ dữ vì kẻ ác không bao giờ hưởng được sự bình an. Đức Chúa Trời sẽ xô kẻ ác vào tai họa. Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay.” (Ê-sai 57:21 và Hê-bơ-rơ 10:31, Châm ngôn 21:12)
ƠN CHÚA DẮT ĐỨA NHỎ ĐẾN DẪN ĐƯỜNG…
Một ngày kia, chúng tôi đi thăm một gia đình tín hữu ở một Tỉnh xa, cách Nam vang độ 100 cây số. Khi xe tới thành phố thì trời cũng đã tối. Chạy khắp đây đó để hỏi thăm nhà nhưng gặp toàn là người Miên nên không ai biết. Chúng tôi ngừng xe lại nghỉ một chút. Tôi cúi đầu cầu nguyện, xin Chúa chỉ dẫn cho gặp người Việt họa may họ biết người Việt. Cảm tạ ơn Chúa, vừa cầu nguyện xong liền có một đứa nhỏ bán cà rem đến mời mua. Tôi liền hỏi thăm, nó biết chỗ nên dẫn đường chúng tôi đến tại nhà người tín hữu. Thật cám ơn Chúa. Ngài là Đấng nhậm lời cầu nguyện như sách tiên tri Ê-sai Chúa đã phán: “Ta nhận lời họ trước khi kêu cầu ta; họ còn nói, Ta đã nghe rồi. (Ê-sai 65:24). “Nếu ngươi gìn giữ những điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi và đi theo đường lối Ngài. Bấy giờ ngươi cầu, Ta ứng; ngươi kêu, Ngài sẽ phán rằng: Có Ta đây. (Phục 28:9; Ê-sai 58:9).
KHỎI BỊ THIỆT HẠI TIỀN THUẾ.
Trong khi xuất dương đến Nam vang hầu việc Chúa, chúng tôi còn một số tiền gởi ở Ngân hàng Việt Nam. Chúng tôi cầu xin Chúa cho mua được một căn nhà.
Từ Nam vang trở về Sài gòn để tìm mua căn nhà thì lại được sự may mắn thấy ngay căn nhà đang bán tại chợ Nguyễn Tri Phương, giá 150.000 đồng. Sau khi làm giấy tờ mua xong, tôi đi thẳng đến văn phòng Trước bạ xin đóng thuế sang bộ. Nhân viên văn phòng tính 18% thuế phải đóng là 27.000 đồng. Tôi liền vào phòng thu tiền để đóng. Lúc đó độ 4 giờ rưỡi. Nhân viên thu tiền nói: “Hết giờ rồi, mai trở lại.” Tôi nài nỉ người làm ơn thu giùm vì mai tôi phải trở về Nam vang. Dù nài nỉ hết lời người cũng không chịu, vì tánh người khó quá, chớ theo tôi tưởng sự thu tiền chẳng có gì lâu, hay làm trễ giờ làm việc.
Tôi trở về lòng hơi buồn, định mai trở lại sớm để đóng thuế, nhưng sau đó tôi hoãn lại việc này vì nhận biết chẳng gấp chi nên về thẳng Nam vang. Độ 4 tháng sau, tôi xuống Sài gòn để đóng thuế, thì được biết theo luật mới vừa thông báo loại nhà tôi mua được giảm thuế trước bạ chỉ còn 5% mà thôi!
Thế là từ 27.000 đồng, tôi chỉ còn đóng 7.500 đồng. Thật lòng tôi vui vẻ tạ ơn Chúa, vì nếu mấy tháng trước nhân viên kia tử tế chịu thu tiền thì tôi đã mất gần hai chục ngàn đồng. Thấy còn dư tiền dành đóng thuế, tôi đến văn phòng Giáo sĩ Sawin nhờ ông mua giùm một máy phóng thanh và dụng cụ dùng cho sự giảng Tin lành. Lại nữa, tôi cũng còn dư tiền nên lúc về tới Nam vang gặp ông Giáo sĩ Sechrist sắp về Mỹ, tôi xin ông để lại cho tôi cây đờn phong cầm Harmonium để đờn trong nhà thờ, thì số tiền ấy cũng vừa đủ số để trả. Thật cảm tạ ơn Chúa, sự ban ơn của Ngài rất diệu kỳ.
CẦU NGUYỆN CHO MỘT NGƯỜI BỊ BỆNH LAO.
Một ngày kia, chúng tôi vào nhà thương thăm một tín hữu, có người giới thiệu cho chúng tôi một người đau nằm ở phòng số 13. Căn phòng này theo sự tin tưởng của nhiều người là hễ ai vào phòng này thì ít có người còn sống vì có ma quỉ khuấy phá. Chúng tôi liền đến thăm người, thấy người bệnh ốm yếu chỉ còn da bọc xương, hai tay để xuội xuống như người sắp chết. Tôi tự giới thiệu là Mục sư đến thăm, người có bằng lòng không? Đoạn, tôi chia xẻ về tình thương và quyền năng lớn lao của Chúa Jê-sus cho người. Đang khi nghe, nước mắt người chảy dầm dề. Người nói: “Tôi là tín hữu Tin lành nhưng đã sa ngã mấy mươi năm, hôm nay trước khi sắp chết lại được gặp Mục sư, tôi cảm động quá, xin Mục sư cầu nguyện để Chúa ân xá tội cho tôi, vì tôi bị bệnh lao đã tới thời kỳ thứ ba nên không thể nào sống được nữa.” Tôi đặt tay lên trán người và cầu xin Chúa cho một phép lạ chữa bệnh, để ai nấy trong nhà thương này thấy quyền năng của Cứu Chúa. Cảm tạ ơn Chúa rất diệu kỳ, quyền năng của Chúa hôm qua, ngày nay không hề thay đổi. Vài ngày sau, chúng tôi trở lại thăm, thấy người ngồi dậy được. Và tuần sau nữa thì người đứng dậy đi tới lui. Rồi một tháng sau, là người gần bình phục, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên, cảm tạ ơn Chúa.
NGƯỜI BỊ PHÁ ĐỔ ĐỨC TIN…
Có một người Pháp lai Việt nằm gần bên phòng người bệnh lao, thường ngày phá đổ đức tin người rằng: “Mày nói Chúa chữa bệnh cho mày hả, nếu không nhờ mấy chục hũ Streptomycines thử xem mày có sống không?” Và ban đêm người Pháp lai này còn quyến rũ người lén trốn khỏi nhà thương đi hút á phiện. Chúng tôi biết được chuyện nên đến khuyên người nên kính sợ Chúa và đừng hút á phiện, nguy hiểm cho sức khoẻ. Người lơ là không chú ý đến lời chúng tôi khuyên. Nhưng tôi tiếp tục khuyên: “Anh nên nhớ lại khi đau nằm sát giường, bạn bè chẳng ai thăm viếng, nhưng chúng tôi cậy ơn Chúa, đem tình thương của Chúa thăm viếng không kể đến sự truyền nhiễm của bệnh lao. Chúng tôi không cần anh cám ơn miễn là anh nhớ ơn Chúa cứu anh là đủ. Hôm nay tại sao anh không kính sợ Chúa? Nếu anh không ăn năn mà cứ đi con đường phạm tội chắc sẽ bị Chúa sửa phạt”. Nhưng người xoay mặt vào tường không muốn nghe (có lẽ người nầy tin rằng đã nhờ thuốc mà được sống nên Chúa cho người thấy cũng do thuốc mà người chết, để người ăn năn hầu linh hồn được cứu ).
Vài tuần sau, chúng tôi được Chúa thúc giục muốn vào nhà thương để khuyên người lần chót, hy vọng người sẽ ăn năn. Thật là mầu nhiệm, hôm ấy cũng là lần cuối mà Đức Chúa Trời cho chúng tôi gặp người trước lúc người sắp qua đời.
Khi vừa vào đến nhà thương thì gặp ngay vợ người. Bà ta khóc và mói rằng: “Thôi rồi! Còn chi nữa Mục sư. Nhà tôi đang mạnh như thường, song chỉ hơi nhức đầu một chút, bác sĩ đem thuốc lại chích, vừa chích xong là ông bất tỉnh. Họ khiêng ông lên lầu nằm mê man nảy giờ.” Chúng tôi chạy thẳng lên lầu thấy anh ta nằm bất tỉnh. Tôi kêu người hãy ăn năn tội lỗi để tôi cầu nguyện cho, nếu người nghe được thì hãy gật đầu nhưng chúng tôi chỉ thấy môi người như mấp máy và có giọt nước mắt. Tôi liền cầu nguyện, xin Chúa thương xót người, ban cho người sự ăn năn để linh hồn được cứu rỗi. Sau đó, vài chục phút là người qua đời… Cám ơn Chúa cho chúng tôi đến thăm người vừa kịp lúc để khuyên người ăn năn và cầu nguyện cho người trước khi qua đời.
CẦU NGUYỆN CHO MỘT NGƯỜI BỆNH NƯỚC TIỂU ĐƯỜNG.
Khi đến Nam vang được ít lâu. Vợ tôi và tôi đến thăm một người Miên gốc Việt đang đau, nằm ở trại cây của một người tín hữu. Người kể chuyện: “Tôi tên là Luon-Huon, Đốc phủ làm việc cho Pháp khi trước. Ngày Cao miên độc lập, tôi làm việc cho Quốc trưởng Shihanouk với chức phó giám đốc Bộ ngoại giao, tôi có cả thảy 32 huy chương, gồm luôn Mề-đai Điều. Tôi đang tạm nghỉ vì bệnh tiểu đường bất trị và bao nhiêu tiền bạc đều đổ vào thuốc men nên hiện nay không nhà, không cửa, ở đậu tại trại cây này. Trước khi đau, tôi nặng 70 kí mà bây giờ chỉ còn 40.” Chúng tôi liền nói về quyền năng diệu kỳ của Cứu Chúa và tình thương của Ngài đã chịu chết thế tội cho. Người chăm chú nghe và sau đó người bằng lòng tiếp nhận Jê-sus làm Cứu Chúa. Thật cảm tạ ơn Chúa, sau đó chúng tôi nhơn danh Chúa cầu nguyện cho người và dạy người cách cầu nguyện với Chúa. Người có đức tin và bắt đầu khoẻ lại lần lần. Sau vài tháng, người mập ra cân lên được 65 kí gần mức bình thường. Người vui mừng đến nhóm họp thờ phượng Chúa. Sau vài năm, người được đắc cử Thơ ký Hội thánh, người hoạt động khá đắc lực cho công việc Chúa. Và đời người còn có nhiều phước cũng như thử thách, tôi xin đọc giả cho phép tôi kể thêm vài mẫu chuyện về ông Luon-Huon nầy.
XIN ĐƯỢC TIỀN MUA NHÀ VÀ BỊ CHÁY NHÀ.
Ngày kia, ông Luon-Huon đến xin chúng tôi cầu nguyện để người đến tòa Đại sứ Pháp xin cứu trợ vì người nói rằng đã làm việc cho Pháp hơn 20 năm. Rất may mắn, người được Đại sứ Pháp trao cho 20.000,00 Ria (là tiền Cao miên ). Người đem về mua được căn nhà nho nhỏ để ở. Vừa mua xong căn nhà chưa dọn đến ở là nhà bị cháy chung với cả xóm gần 100 cái khác. Người buồn quá đến khóc lóc với chúng tôi. Tôi an ủi người rằng: “Chúa sẽ cho ông nhiều hơn căn nhà ấy nữa”. Thật vậy, sau đó nhà cầm quyền Cao miên ra lệnh: Đất của những nhà bị cháy chỉ chia cho người dân Cao Miên mà thôi. Do đó, bao nhiêu người Việt bị cháy nhà đều mất luôn sản nghiệp, nhưng người nầy là dân Miên nên được chia cho một miếng đất khá rộng, bề ngang 12 thước, bề dài 50 thước. Người chạy đến thăm chúng tôi và báo tin vui mừng, cám ơn Chúa vì người được đất.
ĐƯỢC MỘT CĂN NHÀ LẦU ĐÚC VÀ CĂN NHÀ ẤY BỊ LỆNH PHÁ BỎ.
Sau đó, người giao cho thầu khoán cất nhà trên miếng đất ấy và được chia phần cho một căn lầu đúc, ngang 4 thước, dài 12 thước. Gia quyến người dọn đến ở rất vui thích. Nhưng rủi thay, nhà ở sát bên cạnh là nhà ông Nhạc gia của Shihanouk. Ông già ấy rất khó tánh, thấy nước mưa bên balcon nhà ông Luon-Huon chảy qua đất, lại đi thưa. Và sau khi nhà cầm quyền xem bản đồ kiến trúc thấy bản đồ chỉ cho hai căn mà thầu khoán lại cất ba căn, nên Ủy ban Thẩm mỹ Đô thành ra lệnh phá hết nội trong ba tháng.
Hỡi ơi! Người lại chạy đến chúng tôi khóc lóc: “Mục sư ơi! Cả cuộc đời mới có một căn nhà, mà ngày nay nhà sắp bị phá, chắc tôi phải uống thuốc ngủ.” Lòng chúng tôi cũng quá đau buồn về hoàn cảnh của người. Chúng tôi mời người cùng chung cầu nguyện để xin sự giải cứu của Chúa. Sau đó, tôi đọc cho người nghe Kinh thánh sách Ê-xơ-tê 4:14:17, về truyện tích Chúa dùng một cô gái tên là Ê-xơ-tê được chọn làm Hoàng hậu để giải cứu dân Do thái lâm nạn ngày xưa. Hôm nay tôi tin chắc Chúa sẽ dùng một nhân vật nào đó giải cứu sản nghiệp của ông, miễn là ông tin cậy Chúa.
Sau một tháng, chúng tôi khẩn thiết cầu nguyện cho người. Thật cảm tạ ơn Chúa là Đấng đã nhậm lời cầu nguyện và can thiệp giúp cho con cái của Chúa trong cơn thử thách.
Một đêm kia, người đến báo tin cho chúng tôi hay: “Chính phủ hiện hữu đã bị đổ và bạn của tôi là Giám đốc Bộ ngoại giao vừa được chỉ định làm tân Thủ tướng. Tôi hy vọng nhờ tân Thủ tướng cứu giúp”. Thật đúng như vậy, tân Thủ tướng đích thân đến tại căn nhà bị lên án phá bỏ để xem xét nhà và bản đồ. Ông cũng muốn làm cho vừa lòng người lân cận nên cho lệnh đập phá bớt một phần của balcon; đồng thời cho lệnh vẽ lại bản đồ từ hai căn ra ba căn như hiện có. Mọi sự đâu đó được êm xuôi. Được biết rằng, tân Thủ tướng nầy chỉ nắm quyền được hai tháng rồi cũng bị đổ. Thật cảm tạ ơn Chúa có dùng người can thiệp, cứu giúp trong một trường hợp đầy khó khăn cứu căn nhà của một con cái của Chúa khỏi bị đập phá. Ha-lê-lu-gia !
CHÚA CỨU NGƯỜI KHỎI BỊ MẤT CHỨC, TÙ TỘI LẠI CÒN ĐƯỢC HUY CHƯƠNG.
Một ngày kia, Ông Luon-Huon đến nhà chúng tôi mặt mày tái xanh, khóc lóc: “Mục sư ơi! Lần này tôi chắc tôi không khỏi bị mất chức và tù tội!” Người nói: “Ông giám đốc Bộ ngoại giao đưa cho tôi tập hồ sơ nước Do thái về văn phòng để nghiên cứu. Nhưng rủi thay tôi làm rớt mất ở đâu không tìm được. Ông giám đốc rầy la tôi và cho biết lệnh nghiên cứu này là của Quốc trưởng, và tập hồ sơ này là bí mật của quốc gia, và hiện nay, Quốc trưởng Shihanouk đang nghiêng hẳn về khối Ả rập, lại nghịch với Do thái mà tôi lại làm mất hồ sơ bí mật này nên có thể bị kết án về lý do chính trị và có thể bị tù đày.” Người khóc lóc xưng tội rằng: “Mục sư ơi! Tôi có tội nặng vì bị cám dỗ hút thuốc trở lại, và con đàn bà Miên cùng sở nó cám dỗ tôi…”
Đoạn, chúng tôi và người xưng tội cầu nguyện để nhờ ơn thương xót của Chúa giải cứu con cái của Ngài đang lâm nạn. Chúng tôi cũng khuyên người về nhà tiếp tục xưng tội cầu nguyện và hết lòng nhờ cậy sự giải cứu của Chúa. Thật ơn Chúa rất diệu kỳ! Tuần sau người đến với chúng tôi mặt mày sáng rở và nói rằng: “Quốc trưởng kêu ông Giám đốc, bạn tôi đến la rầy và cách chức; còn về phần tôi thì Shihanouk không rầy la chi, chỉ ủy thác tôi phải lập lại cho được hồ sơ này nội trong một tháng cho xong, nếu được ông sẽ thưởng, và tôi cũng đã xin lệnh Quốc trưởng cho tôi toàn quyền hành động về việc ấy. Ông đã chấp thuận và tôi đã lấy lệnh Quốc trưởng đánh điện tín đi khắp nước nào có tòa Đại sứ Cao miên để yêu cầu tìm kiếm và sao lục hồ sơ Do thái gởi về gấp nội trong vòng 15 ngày. Chắc có hy vọng và tôi có thể làm đúng hẹn. Vậy, xin Mục sư cầu nguyện cho.”
Thật vậy, sau đó một tháng người lập lại được hồ sơ ấy như cũ mà trái lại còn khá đầy đủ hơn nữa. Quốc trưởng khen giỏi và thưởng cho người một huy chương. Thật ơn Chúa rất diệu kỳ!
Sau đó, đức tin người càng thêm vững mạnh, mặc dù trên 50 tuổi nhưng người xin tôi cho được tham dự vào các chương trình diễn lễ Nô-ên với các thanh niên. Người đọc thi ca, diễn văn như một thanh niên. Cảm tạ ơn Chúa vì đã đẹp lòng Ngài, nên sau đó vài năm thì người phải vào bệnh viện để mổ ruột dư, bị lâm bệnh và qua đời cách êm ái. Trước khi tắt hơi, người nắm lấy tay tôi cầu nguyện cho người về nước Chúa và khi đã tắt thở rồi mà môi người vẫn nhích lên như mỉm miệng cười. Ai thấy mặt cũng đều thấy làm lạ, và lễ an táng người quá trọng thể vì có các nhân viên trong ngoại giao đoàn đi đưa, ít thấy có đám xác nào được long trọng như vậy ở Nam vang.
SAU GẦN MỘT NĂM MỚI DẪN ĐƯỢC NGƯỜI CHỦ AM TIN CHÚA.
Đã là người truyền đạo, thì dẫn được một vài người tin Chúa có đáng chi phải kể lại. Nhưng việc nầy cần kể lại để nói lên ơn thương xót thật lạ lùng của Chúa và quyền năng của cứu Chúa đã thay đổi được lòng một người Ni cô và Trụ trì Phật tử nầy.
Nhớ lại, mỗi lần chúng tôi đi thăm một người tín hữu là ông Nguyễn Văn Chậm, chúng tôi phải vào xóm chùa Cao đài. Biết rằng, chùa này được kiến trúc thật vĩ đại và đã gần xong. Nhưng vì lý do chính trị… chùa này phải bị lệnh cấm, đình chỉ mọi kiến trúc. Tuy việc xây dựng bị ngừng lại nhưng phía lầu trước đã làm xong, nên Đại Thượng sư Phạm Công Tắc có thể ở thường xuyên tại đó.
Mỗi lần vào xóm, chúng tôi ghé thăm một cái Am (Am là cái nhà tranh để thờ Phật như một cái chùa nhỏ). Trong am, ở chính giữa thì có một bàn thờ tượng Phật, có chuông lớn, có mõ để gõ, có Kinh sách và nhang đèn, hoa quả cúng hiến. Quanh hai bên bàn thờ Phật là bàn thờ Bà Quan âm và bàn thờ Chúa Tiên, Chúa Ngọc và còn nữa… Còn dưới đất là bàn thờ nhỏ cúng ông Địa, bàn thờ Thổ thần và phía trước cửa là bàn thờ ông Thiên. Nhang đèn được đốt lên và việc cúng vái dường như là suốt ngày đêm, khói hương nghi ngút, bay tỏa khắp nhà, mùi thơm ngát như có vẻ thiêng liêng huyền bí. Đồng bào trong xóm thường đến Am để khấn vái.
Được biết chủ Am này là ông bà Nguyễn Văn Cát, cả hai ở tuổi độ 50. Bà thì cạo đầu, còn ông Cát thì chưa. Nhờ người Tín hữu trong xóm dẫn đến giới thiệu nên chúng tôi được ông bà chủ Am niềm nở tiếp chuyện. Mỗi lần thăm, chúng tôi cố gắng giới thiệu tình thương của Chúa Jê-sus cho ông bà. Sự việc kéo dài như vậy hơn một năm thì một buổi chiều kia, cảm tạ ơn Chúa, Ngài dẫn chúng tôi đến thăm người tín hữu, được gặp ông bà chủ Am ngồi chơi tại đó. Chúng tôi cậy ơn Chúa thuyết phục ông bà nên tin Chúa Jê-sus để tội được tha và linh hồn được cứu. Cám ơn Chúa, nhờ ơn Thánh linh soi sáng nên ông bà được cảm động liền bằng lòng tin nhận Chúa Jê-sus làm Cứu Chúa của mình. Thật ơn Chúa rất diệu kỳ !
Sau khi chúng tôi nhơn danh Đức Chúa Jê-sus cầu nguyện cho ông bà, ông bà mời chúng tôi đến tại Am giao hết các đồ vật cúng thờ. Chúng tôi đem xe đến dọn đi hết các đồ vật như: tượng Phật, chuông, mõ, bình hương, chơn đèn và các hình giấy lớn, nhỏ, bông hoa, nhang và đèn cầy…
Sau khi dẹp xong, sửa sang lại bàn ghế, chúng tôi hát Thánh ca và cầu nguyện để giúp cho đức tin cho ông bà được an tâm sống trong căn nhà ấy. Đồng bào trong xóm hết sức ngạt nhiên và chống nghịch ông bà. Nhưng cám ơn Chúa, ông bà vẫn giữ một lòng tin Chúa và thường xuyên nhóm lại thờ phượng Ngài.
Suốt thời gian chừng 10 năm, đang khi chúng tôi còn ở Hội thánh Nam Vang, mặc dù ông bà gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn giữ được đức tin, luôn luôn nhóm thờ phượng Chúa, ít khi nào vắng mặt cho đến ngày ông bà bị bắt buộc trở về Việt Nam; còn chúng tôi phải sang Pháp năm 1970 thì sau đó không còn liên lạc nhau được nữa. Nhưng chúng tôi tin chắc rằng: Lòng tin của ông bà vẫn được vững mạnh vì ông bà là một Cơ đốc nhân đã được trưởng thành. Cảm tạ ơn Chúa.

Ban Thanh Niên HT Nam Vang, khoảng năm 1962
CHƯƠNG CHÍN.
LÒNG YÊU MẾN ĐỀN THỜ.
Vào khoảng năm 1965, nhà cầm quyền Cao miên không cho các Giáo sĩ Mỹ cũng như kiều dân Mỹ trú ngụ trong xứ (có lẽ lúc bấy giờ ông Shihanouk bị áp lực của cộng sản). Chúng tôi cũng rất e ngại là nhà cầm quyền có thể cấm các nhà truyền giáo Việt nam, và họ có thể trục xuất chúng tôi như các nhà truyền giáo Mỹ.
ƠN CHÚA CHO CHÚNG TÔI CAN ĐẢM THÀ CHỊU TÙ CHỚ KHÔNG CHỊU ĐÓNG CỬA NHÀ THỜ.
Một ngày kia, có một việc xảy ra cho Hội thánh Tin lành Cao miên do một tín hữu người Miên (gốc Việt) có học Trường Kinh Thánh hai năm đang làm việc trong nhà in Tin lành. Người đi Hồng Kông rồi qua luôn bên Mỹ. Nghe tin là người sang Mỹ làm việc ở đài phát thanh (có lẽ người đọc tin tức trong giờ phát tiếng Cao miên của Đài VOA). Nhà cầm quyền Miên lấy cớ đó để đóng cửa nhà in Tin lành và bắt thêm mấy vị truyền đạo và vài ông Chấp sự có thơ từ liên lạc với người tín hữu đi Mỹ ấy. Như được trớn, nhà cầm quyền còn mời ông Giáo sĩ Pháp đến (lúc bấy giờ các Giáo sĩ Mỹ đã ra khỏi xứ, chỉ còn một ông Giáo sĩ Pháp mới đến Nam vang được vài tháng) bảo ông phải đóng cửa hết các nhà thờ Tin lành trong xứ. Việc xảy đến như vậy, ông Giáo sĩ không biết tính lẽ nào nên cho lệnh tạm đóng cửa hết các nhà thờ. Đoạn, ông vội vã trở về Pháp báo cáo tự sự với Hội truyền giáo để biết phải làm gì. Trước khi lên máy bay, ông nhắn lại với vị Mục sư trí sự người Trung hoa báo tin cho chúng tôi hay cũng phải đóng cửa Nhà thờ Việt Nam y theo lệnh của nhà cầm quyền Cao miên để chờ ông trở qua vận động xin mở lại một lượt với Hội thánh Tin lành Cao miên. Ông Mục sư trí sự ấy đến nói lại chúng tôi hay những lời Giáo sĩ đã căn dặn và hơn nữa, ông cũng cho chúng tôi biết tuần trước Hội thánh Cao miên mở cửa nhóm họp, nhà binh đến bắt vài ông Truyền đạo và vài vị Chấp sự có mặt trong buổi nhóm hôm đó. Ông khuyên chúng tôi nên nghe lời Giáo sĩ. Đoạn, ông đi báo tin cho tín hữu Việt cũng như Trung hoa hay tự sự. Lòng anh em tín hữu cũng như Ban chấp hành Hội thánh Việt thảy đều bối rối, họ đến bàn luận cùng chúng tôi và khuyên tôi nên tạm đóng cửa nhà thờ để chờ Giáo sĩ trở qua lo liệu. Tôi chỉ trả lời để chờ ý Chúa.
Cảm tạ ơn Chúa, chiều lại tôi đang đứng trước cửa nhà tư thất, lòng đang nặng nề về công việc vừa xảy ra. Ngó vào hông nhà thờ, tôi nhìn từ khuôn cửa đến cánh cửa, tôi nhìn từ miếng ngói đến nóc nhà thờ và ngẫm nghĩ rằng: “Nếu nhà thờ này bị đóng cửa thì những cánh cửa này không biết ngày nào sẽ được mở. Vì thời kỳ nào mà quyền của ma quỉ đóng được cửa nhà thờ thì dễ gì chúng sẽ cho mở cửa trở lại. Nước mắt tôi tuôn chảy và nghẹn ngào. Lòng tôi phát sinh ra sự yêu mến Đền thờ của Đức Chúa Trời. Tôi tự nghĩ rằng: “Bấy lâu nay mình nói yêu mến Đền thờ, đó bất quá là lời nói lý thuyết, chớ chưa có lần nào được trắc nghiệm. Hôm nay đây mới chứng thực là người yêu Chúa và yêu mến Đền thờ Đức Chúa Trời. Vì cơ hội đã đến để thử thách lòng yêu ấy sẽ ra như thế nào? Nếu mình yêu mến Đền thờ thật thì trước khi đóng cửa Đền thờ phải làm một việc gì để chứng minh, mặc dù vì điều ấy mà mình phải chịu hy sinh bao nhiêu đi nữa, mình cũng phải chấp nhận.”
Cám ơn Chúa, Ngài lại nhắc tôi thêm: “Đóng cửa Đền thờ phải có giấy tờ gì chính thức chứ? Lẽ đâu chỉ nghe lời hăm dọa của một số người, mình lại đi đóng cửa Đền thờ. Rồi lịch sử sau này sẽ nghiêm khắc lên án và phê phán mình là người như thế nào?” Tôi liền vào nhà gọi vợ tôi để báo tin ý Chúa mới soi sáng cho: “Nếu không có giấy tờ chính thức của Chánh phủ Cao miên ra lệnh đóng cửa Nhà thờ thì tôi nhất định không đóng.” Cám ơn Chúa, vợ tôi cũng vừa được soi sáng về việc này nên cũng tán đồng với tôi.
Sáng hôm sau, có vài vị trong BCH Hội thánh đến yêu cầu tôi nên tạm đóng cửa Nhà thờ y như lời Giáo sĩ. Tôi trả lời: “Lòng tôi đã quyết định rồi, nếu không có giấy tờ chính thức thì tôi không bao giờ chịu đóng cửa Nhà thờ.” Các vị ấy nói: “Mục sư ơi! Chúng tôi thương hại Bà và các cháu, nếu trường hợp Mục sư bị bắt và bị trục xuất thì ai lo cho gia đình? Vả lại, Mục sư có căn nhà tại đây người ta có thể tịch thu sản nghiệp Mục sư.” – “Cám ơn các ông,” tôi trả lời, “Vợ con sao không thương, sản nghiệp tôi tạo nên bởi mồ hôi nước mắt sao không sợ mất? Nhưng ngày nay vì vợ con, vì sản nghiệp tôi đóng cửa Nhà thờ, thật tôi không xứng đáng làm Mục sư hầu việc Đức Chúa Trời.”
Qua ngày hôm sau là thứ Bảy, có một ông Chấp sự Hội thánh đến cho chúng tôi hay rằng: “Có được tin chắc chắn, nếu sáng Chúa nhật ngày mai mà Mục sư mở cửa Nhà thờ thì sẽ bị bắt liền.” Tôi trả lời: “Như điều tôi đã nói với BCH Hội thánh, là tôi sẵn sàng chịu tù, chớ không chịu đóng cửa Nhà thờ mà không có giấy tờ gì.” Ông ấy nói: “Như vậy Mục sư làm hại Hội thánh, Mục sư đóng cửa ít ngày rồi Giáo sĩ trở qua vận động xin mở lại một lượt với các Hội thánh Cao miên, có phải êm chuyện không? Hôm nay Mục sư không nghe lời Giáo sĩ, không nghe lời đề nghị của BCH Hội thánh, Mục sư mở cửa Nhà thờ lúc có lệnh cấm, nhà cầm quyền đến bắt Mục sư, họ cũng có thể bắt chúng tôi là các chức viên Hội thánh, như họ đã bắt các chức viên bên Hội thánh Cao miên. Và nhà cầm quyền lấy cớ rằng Mục sư chống nghịch, họ đóng cửa nhà thờ luôn vĩnh viễn. Có phải mục sư làm hại cho Hội thánh không?” Tôi khẳng định trả lời lần chót: “Từ cả tuần lễ nay có năm, bảy tin đem đến xúi giục tôi đóng cửa nhà thờ, tôi cho đó là những tin tức từ ma quỉ, nên từ đây về sau tôi không còn muốn bàn luận với ai về vấn đề này nữa, vì lòng chúng tôi đã quyết định rồi, không thay đổi.”
Sáng hôm sau, đúng là ngày Chúa nhật rất nghiêm trọng (tôi còn nhớ rõ đó là ngày 28 tháng 8 năm 1966), gia quyến chúng tôi thức dậy sớm hơn thường nhật để cầu nguyện, xin Chúa ban một đạo binh Thiên sứ của Ngài đến bảo vệ chúng tôi; nếu có kẻ nào rình rập để bắt, xin Chúa xô đuổi.
Vừa rạng đông, độ 6 giờ, chúng tôi nhận được một thơ của người tín hữu Pháp lai Việt sai người cầm đến. Trong thơ người báo tin cho chúng tôi hay đừng mở cửa Nhà thờ sáng nay, vì người có nhận được tin bí mật của nhà cầm quyền đã chuẩn bị cho lính bắt, nếu sáng Chúa nhật này nhà thờ mở cửa. Chúng tôi chẳng chú ý gì về lời đó, vì tôi cho tất cả tin tức về việc đóng cửa nhà thờ là tin của ma quỉ đem đến hăm dọa tôi để đóng cho được cửa Đền thờ. Còn về phần tôi đã được Đức Chúa Trời cảm động quyết định chịu trả giá; hoặc là nhà thờ được mở cửa hoặc là tôi phải vào tù, chịu trục xuất và mất luôn sản nghiệp.
Đúng 7 giờ sáng, chúng tôi mở cửa nhà thờ sớm hơn thường nhật một giờ. Kế đó, đúng 8 giờ rưỡi là giờ cầu nguyện chung buổi sáng tại nhà thờ. Gia quyến chúng tôi bắt đầu hát Thánh ca, đọc Kinh thánh. Cảm tạ ơn Chúa, trong giờ cầu nguyện buổi sáng hôm ấy có một bà tín hữu là Bà Tư Quang (Bà Tư Quang má của cậu Lâm Thành Vân) đến nhóm với chúng tôi. Chỉ có một tín hữu đến nhóm mà chúng tôi cảm thấy vui vẻ. Rồi một giờ sau, tới giờ thờ phượng Chúa cũng cho có được độ 10 người đến.
Đúng 10 giờ, tôi khởi sự theo chương trình mời hội thánh thờ phượng Chúa. Vừa hát xong bài Thánh ca thì thình lình có một người Miên ăn mặt theo lối quân nhân bước vô nhà thờ, đi thẳng lên tới tòa giảng, đưa cho tôi một bức thơ. Tôi cầm thơ lật qua lật lại, lòng cũng hơi lo ngại. Đoạn, xé ra xem, thì ra thơ của một tín hữu sa ngã lâu ngày gởi đến nhờ tôi trao lại cho người bạn. Tuy là một bức thơ tầm thường, nhưng đó là mưu kế của ma quỉ dùng đúng cơ hội và thì giờ. Hơn nữa, chúng mượn lòng của một tín hữu sa ngã khiến đúng giờ ấy lại gởi thơ và mượn một anh quân nhân cầm đến nhà thờ ngay vào giờ giảng để đánh tôi thêm một đoàn cân não. Cảm tạ ơn Chúa, mặc dù anh em tín hữu như có vẻ bối rối khi thấy một quân nhân đem thơ đến; nhưng khi tôi cho biết chỉ là một bức thơ của người quen thì anh chị em lấy lại được bình tĩnh. (Đang lúc đó, tôi đứng trên tòa giảng ngó ra đường thấy có một số tín hữu và vài vị trong BCH Hội thánh ăn mặt cải trang như người đang đi làm việc, qua lại trước cửa nhà thờ để quan sát tình hình).
Cảm tạ ơn Chúa, buổi nhóm hôm ấy tuy ít tín hữu nhưng ơn Chúa cho tôi giảng rất hùng hồn mà trong đời sống chức vụ bao nhiêu năm ít có lần nào giảng được như vậy.
Cám ơn Chúa, ngày Chúa nhật đó chẳng có sự gì xảy ra; rồi lần lần về sau anh em tín hữu nhóm họp đông đủ lại như thường lệ. Nhưng rất tiếc là Hội thánh Tin lành Cao miên bị đóng cửa luôn mấy năm, và vị Giáo sĩ khuyên chúng tôi nên đóng cửa nhà thờ để chờ ông trở qua Cao Miên vận động mở lại, cũng chẳng còn thấy ông trở lại Cao Miên nữa.
Một số Mục sư Cao miên có lòng can đảm mời tín hữu nhóm lại trong nhà riêng của họ để cầu nguyện và sau đó một thời gian, có cụ Giáo sĩ Jean-Funé (người Pháp) đến Nam vang (Vì lúc bấy giờ người Mỹ không được phép đến Cao miên nên Hội truyền giáo Mỹ đề cử Giáo sĩ Pháp đến đảm nhận chức vụ). Sau khi cụ Giáo sĩ Jean-Funé đến được ít lâu tìm hiểu tình hình, Cụ xin nhà cầm quyền cho Hội thánh nhóm để “làm phước”. Chữ “làm phước” là từ ngữ của người Cao miên hội họp để bố thí, hoặc quyên tiền bá tánh. Như vậy, hễ tuần nào Hội thánh muốn nhóm họp thì phải xin phép. Nhưng chỉ có ở Nam vang mới được điều kiện ấy; còn ở các tỉnh và miền quê thì tùy theo địa phương mà được phép hay không được phép.

(Hình gia đình Mục sư Xuân khoảng năm 1965. Các con: Tân, Huệ, Khiêm, Sang, Quang và Mai)
ƠN CHÚA CHO TÔI THÀ CHỊU TỘI, CHỊU TRỤC XUẤT, CHỚ KHÔNG CHỊU PHÁ DỠ ĐỀN THỜ THEO LỆNH ĐÔ TRƯỞNG.
Cám ơn Chúa, chúng tôi vừa vượt qua được những biến cố hết sức quan trọng; bây giờ lại xảy ra thêm một việc nữa cũng không kém phần quan trọng. Thật câu “Họa vô đơn chí” cũng không phải là không đúng.
Ấy là nhà thờ tuy trước đó được kiến trúc hợp pháp nhưng do sự đo lộn của Sở Họa đồ từ xưa nên vách tường nhà thờ đưọc xây lấn qua bên đất của người lân cận hết 6 tấc và mặt gió lấn qua 1m50. Đã có sự thưa kiện xảy ra. Tôi và ông Giáo sĩ Ellison phải tới lui với nhà cầm quyền mấy lần. Người lân cận tuyên bố thế nào người cũng thắng kiện và đuổi được nhà thờ. Người rất tự đắc vì thấy lúc bấy giờ nhà cầm quyền Cao miên ghét Mỹ cũng như Việt, mà nhà thờ này là của Mỹ và Việt. Nhưng người đã lầm vì nhà thờ này là nhà thờ của Đức Chúa Trời.
Ít lâu sau, người phát bệnh đau thình lình phải vào bệnh viện và cuối cùng bị nằm liệt vĩnh viễn. Hoảng sợ, người liền bán 3 căn nhà và đất ấy cho một người Miên khác. Chủ mới này cũng tự đắc đến hâm dọa tôi mấy lần rằng: “Tôi có quen với Shihanouk và tôi chỉ nói một tiếng là đuổi được nhà thờ.” Thật đúng như lời, người vào đơn thưa ít ngày là có lệnh Đô trưởng truyền cho ông Cò đưa giấy tờ buộc tôi phải dỡ nhà thờ nội trong ba tháng để trả đất lại cho người lân cận cất phố.
Chúng tôi vội vã cho cụ Giáo sĩ hay để nhờ can thiệp. Cụ Giáo sĩ có đến xin hoãn lại lệnh dỡ nhà thờ nhưng không xin được. Giáo sĩ cho tôi hay phải dỡ nhà thờ chớ không còn cách nào khác. Tôi nhận thấy Giáo sĩ thật là nhúc nhác nên trả lời: “Tôi không thể nào bằng lòng dỡ nhà thờ liền bây giờ vì còn chờ kết quả của tòa án xử ra sao, chớ đây chỉ là lệnh ông Đô trưởng, có lẽ người nhận tiền hối lộ mà xử như vậy.” Ông bà Giáo sĩ khuyên tôi: “Nếu ông không chịu dỡ nhà thờ là ông chống với Đô trưởng mà chống với Đô trưởng là ở tù và sau đó bị trục xuất.” Thật vậy, vì Đô trưởng là ông hoàng, lệnh họ như lệnh vua. Lúc bấy giờ không có Đại sứ Việt Nam nên người Việt kiều ngụ tại Cao miên có thể nói như là “Cá nằm trên thớt”. Bấy giờ dù một người lính tầm thường họ cũng có thể có quyền cáo kiện để trục xuất người Việt, chớ đừng nói chi một Đô trưởng oai quyền.
“Tôi đâu có chống với ai mà ở tù, chỉ yêu cầu đưa vụ kiện ra tòa án mà thôi, nếu sự yêu cầu như vậy mà bị tù, bị trục xuất thì đành chịu, chớ tôi không thể nào phá dỡ nhà thờ cách vội vàng khi mà nhà thờ được kiến trúc cách đúng phép. Và chúng tôi tin Đức Chúa Trời là Đấng Sống, không khi nào Ngài cho phép ai phá đền thờ của Ngài theo cách như vậy. Chúng ta nên chờ đợi cánh tay của Đức Chúa Trời. Nếu nhà cầm quyền đến phá dỡ thì họ cứ làm, nhưng tôi không ký tên cũng không phá dỡ.”
Sau cuộc thảo luận gây cấn, chúng tôi nhận thấy không thể nào nhờ cậy Giáo sĩ bênh vực được và nhà cầm quyền Cao miên cũng chẳng nể họ. Sáng hôm sau, tôi mời vài nhân viên BCH Hội thánh cùng đi với tôi đến nhà người lân cận để điều đình mua miếng đất ấy. Người ỷ thắng kiện đòi 300.000 Ria (tương đương 5.000 US Dollars). Nhận thấy số tiền quá lớn và quá mắc, Hội thánh không thể nào có đủ tiền để mua, nên tôi muốn kéo dài thời gian để cầu nguyện và chờ đợi ý Đức Chúa Trời. Tôi liền năn nỉ và hẹn với người lân cận để ít ngày lo liệu rồi sẽ trả lời dứt khoát. Tuần sau, người lân cận cứ luôn đến nhà chúng tôi để thúc hối, còn tôi như người thua kiện xin hẹn nay mai để chờ cánh tay Chúa tiếp cứu.
Kế đó, có lệnh Đô trưởng mời Giáo sĩ, tôi và nhân viên BCH Hội thánh đến rồi cho hay: “Người lân cận muốn điều đình để mọi việc xúc tiến mau lẹ, là Hội thánh phải ưng chịu cho người phá vách tường nhà thờ và một phần mặt tiền. Đoạn, người sẽ gát những cây trính nhà thờ vào tường của nhà đang xây, sở phí người chịu hết; nhà thờ sẽ hơi hẹp một chút mà thôi. Thấy việc hòa giải êm xuôi, nhà thờ hơi hẹp và mặt tiền méo một chút cũng không sao nên Giáo sĩ vui vẻ bằng lòng. Ông Đô trưởng thấy vậy xin Giáo sĩ hẹn ngày đến làm giấy giao kèo.
Về phần tôi, cảm thấy sự phá dỡ nhà thờ như vậy là một sự thua nhục cho Danh thánh của Chúa, vì nhà thờ kiến trúc đúng phép; còn sự lầm lộn là do lỗi sở Họa đồ. Lại nữa, tôi suy nghĩ biết đâu sau này nhà thờ bị méo thì hội đồng Thẩm mỹ Đô thành họ cho dỡ luôn vì nhà thờ không còn đẹp mà lại ở ngay đường lớn của thành phố. Hơn nữa, mất hàng cửa sổ là mất dưỡng khí và cách đâm trính vào tường như vậy cũng không được vững chắc, sở vệ sinh có thể lấy cớ đó không cho nhóm họp. Trước mặt vị Đô trưởng oai quyền tôi không dám kháng biện. Nhưng Chúa cho tôi khôn khéo yêu cầu hoãn lại ít ngày để triệu tập Hội thánh nhóm lại đông đủ thảo luận rồi sẽ trả lời và làm giao kèo. Ý định của tôi là: “Giục hưỡn, cầu mưu” để xin sự can thiệp bởi phép lạ của Chúa, chớ thật ra tôi cũng dư biết cả Hội thánh đều nghe lời Giáo sĩ muốn cho sự kiện sớm chấm dứt để tránh sự thù nghịch với người Miên, hoặc mang tiếng chống lại với nhà cầm quyền; hoặc cũng sợ lúc thua kiện thì nhà thờ bị phá dỡ thì không còn chỗ nhóm.
Tôi cứ trì hoãn việc trả lời, dưới sự thúc hối của người lân cận vì người lân cận đang gấp bởi tường nhà họ đã xây lên rồi. Thời gian kéo dài được chừng một tháng. Trong thời gian này, gia quyến chúng tôi cũng như anh em tín hữu tha thiết cầu nguyện, xin Chúa can thiệp để nhà thờ khỏi bị phá. Cảm tạ ơn Chúa, sự can thiệp của Ngài rất diệu kỳ và đúng lúc, trong khi tôi thấy không thể nào kéo dài được sự hẹn tới hẹn lui nữa, thì thình lình, người lân cận bị xe đụng, không rõ như thế nào mà hai mắt mở như thường nhưng một con như bị đui không thấy đường. Người hoảng sợ nên đến cùng chúng tôi cho hay: “Người muốn bán rẻ 4 thước đất đó cho Hội thánh.” Tôi liền mời vài nhân viên Hội thánh đi với tôi đến nhà người lân cận để biết giá bao nhiêu. Người bán giá 60.000 Ria, gồm 4 thước đất và tường nhà của ông sẽ có để ló dàn sắt ra sẵn để sau nầy nhà thờ muốn xây cất gì thì có thể nối vào. Ông cũng sẽ bao luôn tiền sang bộ. Chúng tôi nhận thấy giá rẻ và Hội thánh có thể lo được nên bằng lòng mua. Anh em tín hữu cố gắng lạc hiến và Hội thánh Trung hoa cũng trợ giúp một phần nên sau hai tháng là số tiền được trả xong tất cả. Thật cảm tạ ơn Chúa “Không có gì khó cho Đức Chúa Trời mà Ngài không làm được” (Sáng 18:14)
Sở dĩ Chúa can thiệp đến nhà thờ này cách đặc biệt vì Chúa biết trong tương lai nhà thờ Việt Nam còn rất cần để dùng cho con cái Chúa giữa người Cao miên, nên trước khi gia quyến chúng tôi sang Pháp tôi ký giấy giao tất cả cơ sở lại cho ông Giáo sĩ Jean-Funé và Hội trưởng Tin lành Cao miên.
Cơ sở này gồm có: một căn nhà có lầu đúc, bề ngang 4 thước, dài 15 thước (tầng dưới và tầng trên). Một nhà thờ xây bằng gạch ngói có mặt gió khá cao rất đẹp, bề ngang 8 thước, dài 13 thước, nằm trên đại lộ có tiếng ở Nam vang là đường Kampuchea Krom còn gọi là “Đường 30 Thước”, gần trung tâm thành phố. Nếu trị giá cơ sở này phải trên hai triệu Ria (tương đương 60.000 US Dollars, năm 1970).
Hơn thế nữa, Chúa đã biết Hội thánh Tin lành Cao miên không có một cơ sở nào kiến trúc gần trung tâm thành phố nên việc dùng cở sở Hội thánh Việt Nam để lại rất thuận tiện cho việc truyền giảng. Khi thủ tướng Lonnol lên nắm chính quyền thì các Giáo sĩ Mỹ được phép trở lại hoạt động. Và Hội thánh Tin lành Cao miên nhờ cơ sở này mà phát triển việc giảng Đạo một cách tốt đẹp và kết quả. Lúc chúng tôi ở Toulouse (Pháp) có nhận được thơ của ông Giáo sĩ Piaget tại Nam vang tỏ vẻ cám ơn Hội thánh Việt Nam. Ông có cho biết nhờ vị trí thuận lợi nên mỗi đêm thứ Bảy và Chúa nhật đếu có truyền giảng và số người đến nghe chật cả nhà thờ, phải đứng bên ngoài hông cửa sổ và phía trước sân. Đêm nào cũng có một số người tin Chúa và sự việc kéo dài như vậy gần 5 năm cho đến ngày ông Pol-Pot vào chiếm Nam Vang… Thật cảm tạ ơn Chúa vì Chúa là Đấng toàn tri và là Đấng đầy năng lực, là Đấng hay nhậm lời cầu nguyện như Chúa đã phán trong sách Giê-rê-mi đoạn 33:3 “Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời cho; Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết.” Ha-lê-lu-gia .
CHƯƠNG MƯỜI
ĐƯỢC KÊU GỌI SANG PHÁP
Tôi nhớ có lần một giáo sư đã nói với chúng tôi: “Ở Pháp có rất đông Việt Kiều, nhưng không ai giảng Tin Lành cho họ, có lúc gặp họ tôi nói về Tin Lành, thì họ như có vẻ nghi ngờ và bỏ đi.” Câu nói ấy như in sâu vào óc tôi. Chúng tôi thường cầu nguyện, xin Chúa cứu Kiều bào bên Pháp đang bị hư mất, vì không có ai nhận trách nhiệm giảng Tin Lành để cứu linh hồn họ. Đôi khi tôi cũng được Chúa Thánh Linh thúc giục, hãy tình nguyện qua Pháp hầu việc Chúa. Vả lại nơi đó cũng thuận hiệp cho các con chúng tôi tiếp tục việc học. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ lại, thấy có biết bao sự khó khăn trên đường đi, chúng tôi ngại mình không thể vượt qua được. Lại nữa khi đã đến đất Pháp rồi, làm sao chúng tôi có đủ phương tiện sinh sống để hầu việc Chúa? Nên tiếng nói ‘qua Pháp để hầu việc Chúa’ bị dập tắt nhiều lần, và tôi dường như không còn muốn nghe những tiếng đó trở lại trong đầu óc nữa. Nhưng rồi thỉnh thoảng tiếng nói qua Pháp hầu việc Chúa lại phát lên cách mạnh mẽ. Chúa thúc giục tôi đừng sợ! Ngài có thể lo liệu vì Đức Chúa Trời là Đấng Sống, sao lại e ngại? Vả lại, bấy lâu nay Chúa đã cho chúng tôi dành dụm được một số tiền ít nhiều để làm gì? Há không phải đây là cơ hội để khả dĩ trang trải sở phí trên đường sang Pháp hầu việc Chúa hay sao? Chúng tôi bàn tính lần mò theo ý Chúa, rồi nhất định rằng, nếu việc thu xếp được dễ dàng thì đó là ý Đức Chúa Trời; còn nếu có nhiều sự ngăn trở thì nguyện ý Chúa được nên.
ƠN CHÚA KHIẾN CHÚNG TÔI ĐỔI CHƯƠNG TRÌNH SANG PHÁP SỚM HƠN MỘT NĂM NÊN KHÔNG GẶP TRỞ NGẠI VÌ THỜI CUỘC
Vào khoảng tháng Bảy, năm 1969 tôi gởi đơn đến Ban Chấp Hành Địa Hạt (BCHĐH) ở Sài Gòn để xin tình nguyện đi qua Pháp hầu việc Chúa giữa kiều bào bên đó, và định sẽ rời khỏi Hội thánh Nam Vang (Phnom Penh) vào tháng 8, 1971. Lúc đó chúng tôi không thể nào biết trước là người Việt không thể ở Cao Miên được đến năm 1971, vì một biến cố chính trị sẽ xảy ra đầu năm 1970, và người Miên sẽ trụt xuất hết người Việt. Vì vậy Đức Chúa Trời phải can thiệp bằng cách nào cho có hiệu lực, để giúp đỡ cho một tôi tớ của Chúa đã có chương trình và kế hoạch nhưng phải ra đi cho đúng thời điểm, thuận hiệp cho sự chuẩn bị cũng như mọi sự thu xếp trong gia đình mình, và khả dĩ cũng thấy rõ được ý Chúa để vâng theo.
Cảm tạ ơn Chúa cho kế hoạch của Ngài trong sự yêu thương thật mầu nhiệm, nếu không phải là người đã từng bước đi trên đường của Chúa thì không thể nào hiểu được ý Chúa. Trong sự biết trước của Chúa, Ngài có kế hoạch can thiệp cách lạ lùng, và chỉ cho chúng tôi đường lối duy nhất đó mà thôi, nên Ngài cho phép có một sự khó khăn xảy ra trong Hội thánh để có thể rút chúng tôi ra khỏi Hội thánh sớm hơn. Trong 13 năm hầu việc Chúa tại đó, không phải là chúng tôi không gặp sự khó khăn trong nội bộ, nhưng không có lần nào gay gắt như lần nầy. Có một người ngoại quốc trực tiếp cầm cán, mời BCH Hội thánh nhóm họp, thảo luận nhiều lần… nên tinh thần chia rẽ trong hội thánh đạt đến mức độ không thể nào còn giữ được sự hiệp một. Chúng tôi nghĩ rằng chắc là Chúa muốn mình qua Pháp sớm hơn nên cho phép có sự bất hòa thình lình xảy ra trong Hội thánh như vậy. (Nghe nói người ngoại quốc nầy về sau được Đức Chúa Trời cho một bài học thật đau đớn và có thể nói là khủng khiếp, nếu ai nghe đến cũng phải kinh ngạc và thương hại cho số phận của người.)
Chúng tôi liền gởi cho BCHĐH ở Sài Gòn một đơn thứ hai để xin đổi lại ngày sang Pháp sớm hơn một năm, tức là sẽ rời khỏi Hội thánh vào khoảng tháng 8, năm 1970. Đồng thời, chúng tôi cũng gởi đơn gấp về Bộ Nội vụ ở Sài Gòn xin sang Pháp vào khoảng đó. Chúng tôi được biết rằng, việc xin giấy xuất dương cho một gia quyến gồm 8 người mà có hai con trai đã đúng tuổi đi quân dịch không phải là một việc dễ. Có một người quen vừa xin được giấy phép qua Pháp nói với chúng tôi: “Xin giấy xuất dương qua Pháp hết sức khó, nhưng nhờ tôi có quen với một vị tổng trưởng nên mới xin được; còn về phần Mục sư chắc khó hơn!” Chúng tôi Ngày đêm cầu xin Chúa lo liệu giùm, chớ tự mình không thể nào lo được! Cám ơn Chúa, Ngài đã khiến cho ông Đại sứ Việt Nam ở Nam vang chỉ dẫn cho kế hoạch (thật nếu không theo kế hoạch của ông ta thì không thể nào xin được giấy). Hơn nữa, đơn chúng tôi khi về tới Sài Gòn thì nằm kẹt ở văn phòng dường như không được cứu xét. Thấy đơn nộp đã quá lâu mà chưa có tin tức, tôi về Sài Gòn và đến Bộ Nội vụ để tìm hồ sơ thì may thay, tôi gặp được một người bạn quen làm việc trong đó. Người nầy đi tìm lục hồ sơ và đem vào gặp ông Trưởng phòng. Ông Trưởng phòng nói với tôi: “Lúc nầy có lệnh Chính phủ, công chức xuất dương không đươc đem gia quyến theo mà Mục sư đem theo hết cả gia quyến.” – “Chúng tôi là nhà truyền giáo, đâu phải công chức? Vả lại, tôi không đi thì thôi, chớ ra đi mà để vợ và các con còn vị thanh niên ở lại thì làm sao an tâm để truyền giáo?” Ông nói: “Mục sư an tâm về Nam vang, mọi sự sẽ xong trong vài tuần, và hồ sơ sẽ gởi trở lại Tòa Đại sứ.” Thật cám ơn Chúa, sau đó ít lâu là giấy xuất dương cho gia quyến chúng tôi được xong xuôi cả. BCHĐH Hội thánh Tin Lành Việt Nam cũng báo tin cho chúng tôi là đơn xin được chấp nhận, và yêu cầu chúng tôi bàn giao công việc hội thánh với vị Giáo sĩ hiện hữu ở Nam vang. Cám ơn Chúa có giúp chúng tôi vượt qua được sự những trở ngại ở buổi ban đầu.
ƠN CHÚA CỨU KHỎI MÌN NỔ
Nhớ lại khoảng tháng 8, năm 1969, tôi từ Nam vang về Việt nam để thu xếp việc gia đình. Buổi sáng kia, tôi lên Bến Cát để thăm bà thân và người anh là Mục sư Nguyễn Văn Phách. Lúc về đến đoạn đường cách Thủ Dầu Một chừng 10 cây số, thì tôi nghe tiếng lớn vì chiếc xe đò chạy phía sau bị cán mìn, chiếc xe hư, hành khách có người bị thương, có người chết. Thật cám ơn Chúa, Ngài có dẫn dắt thế nào mà chiếc xe đò của tôi chạy trước, lại tránh khỏi được mìn, còn chiếc xe sau lại bị lâm nạn. Thật Đức Chúa Trời là Đấng biết trước mọi hiểm nguy nên có thể bảo vệ được con cái Ngài an toàn như lời tác giả Đavít, người có kinh nghiệm trên đường đi với Chúa đã nói: “Bởi vì ngươi nhờ Đức Giê hô va làm nơi nương náu mình… nên sẽ chẳng tai họa gì xảy đến ngươi, vì Ngài sẽ ban lịnh cho Thiên sứ Ngài, bảo gìn giữ ngươi trong các đường lối ngươi”. (Thi thiên 91:9-11)
ƠN CHÚA DỰ BỊ CHO CÓ NGƯỜI Ở PHÁP BẢO LÃNH
Chúng tôi hơi ngại nói lên sự thật, nhưng sự thật là người nào có đến Pháp trước năm 1970, mới biết giấy bảo lãnh ở Pháp rất khó xin, mặc dầu có bà con ruột thịt, hoặc bạn bè thân thiết cũng không phải dễ gì xin mau lẹ được. Nếu ai xin được thì cũng phải chờ đợi rất nhiều thời gian và phải vượt qua rất nhiều điều kiện. Nhất là một gia đình đông người như chúng tôi (gồm 8 người) thì thật là một nan đề, vì người bảo lãnh phải đến trước nhà cầm quyền Pháp làm giấy tờ cung cấp chổ ở, cũng như cam kết lo việc ăn uống và có thể còn chịu trách nhiệm đủ mọi thứ khác suốt thời gian người mình bảo lãnh du lịch trên đất Pháp.
Đã biết được những điều kiện thực tế khó khăn như vậy, nhưng chúng tôi cũng có viết thơ cho người bà con ở Pháp xin nhờ bảo lãnh để sớm được ra khỏi nước Cao miên. Thực ra, chúng tôi không dám tin tưởng, nên đồng thời chúng tôi cũng gởi những thơ đến các bạn người Pháp và người Việt có quen đang cư ngụ tại Paris, Toulouse, Monperlier và Marseille. Mặc dầu có địa chỉ rất đúng nhưng chúng tôi chờ suốt cả tháng mà chẳng thấy người nào trả lời. Chúng tôi hết sức bối rối, vì nếu không có ai bảo lãnh thì không thể nào được Tòa Đại sứ Pháp cấp chiếu khán thông hành. Chúng tôi đi tìm một người Pháp, có quen biết với họ tại Nam vang, xin thương lượng trả tiền để họ gởi thơ về Pháp cho con hoặc vợ họ làm dùm giấy bảo lãnh, nhưng họ cũng không dám làm!
Tiến trình như đã đến ngõ bí. Chúng tôi tha thiết cầu xin ơn Chúa chỉ dẫn cách nào hay gặp được người mà Chúa khiến họ sẵn lòng giúp chúng tôi. Thật là Chúa chúng ta rất diệu kỳ.
Một ngày kia, tôi đến thăm một tín hữu người Miên gốc Việt, thấy trên bàn có một bức thơ của một mục sư Pháp tên là Roger Bertrand ở Bordeaux. Tôi liền xin địa chỉ. Khi về đến nhà tôi liền viết một bức thơ gởi đến ông để nhờ bảo lãnh qua du lịch nước Pháp. Mặc dù chua quen biết nhau lần nào, nhưng ông rất tử tế và sẵn lòng làm giấy bảo lãnh. Nội trong 20 ngày là chúng tôi nhận được một giấy bảo lãnh hợp pháp (Certificat d’Hebergement). Chúng tôi cầm giấy bảo lãnh và miệng không ngớt cảm tạ ơn Chúa về sự giúp đỡ thật lạ lùng của Ngài! Liền trong ngày, chúng tôi đem hồ sơ xin đi Pháp nạp cho Tòa Đại sứ Pháp và được chấp thuận nhanh chóng. Sau đó vài tháng, chúng tôi nhận được một tờ giấy bảo lãnh nữa của bà con; nhưng lại không sử dụng vì chỉ cần một tờ là đủ. Khi sang đến Toulouse (Pháp) được vài tháng, thì tình cờ chúng tôi lại gặp được Mục sư Roger Rertrand trong một nhà thờ Pháp. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, hết sức vui vẻ như là bạn cố tri. Chúng tôi mời ông ta về nhà đãi tiệc để tỏ lòng cám ơn và ngưỡng mộ một người quá tử tế như ông!
ƠN CHÚA GIÚP CHO THƠ NHÀ BĂNG ĐẾN KỊP LÚC
ĐỂ CỨU TÔI THOÁT NẠN
Những giấy tờ cần thiết đã có đủ rồi, nhưng bây giờ còn lại một việc cũng không kém phần quan trọng, đó là làm sao có thể chuyển ngân qua Pháp. Chúng tôi được biết rõ rằng nhà cầm quyền Cao miên cấm nhặt ngoại kiều có tiền gởi băng ngoại quốc và chuyển ngân. Nhưng vì quá cần nên chúng tôi phải liều lĩnh. Chúng tôi khởi sự cầu hỏi ý Chúa xin Ngài chỉ dẫn cách nào để có thể chuyển tiền qua Pháp. Sau đó, tôi đến cùng ông giám đốc một nhà băng Pháp, có chi nhánh ở Nam vang, để xin mở một trương mục gởi tiền qua Pháp. Cũng rất may, vì ông giám đốc là người Pháp nên tôi dạn dĩ trình bày hoàn cảnh. Sau khi ông biết tôi sắp sang Pháp để truyền giáo, nên rất tử tế và sẵn lòng lấy hồ sơ ra điền liền để giới thiệu tôi và gởi về nhà băng chánh ở Paris. Cám ơn Chúa, độ 20 ngày sau là chúng tôi nhận được hồ sơ nhà băng đầy đủ. Đoạn tôi bí mật mua ngoại tệ để gởi vào và chuyển qua nhà băng ở Paris.
Thình lình, trong tháng Tư năm 1970 có cuộc đảo chánh xảy ra ở Nam vang, chúng tôi biết thế nào cũng có sự kiểm duyệt những thơ từ qua lại. Lòng chúng tôi rất sợ hãi vì nhớ lại tuần trước tôi đã chuyển qua Paris 1.500 USD Đollars; nếu việc nầy bị bại lộ thì rất nguy hiễm, vì lúc đó hiện đang có phong trào thù oán người Việt nổi lên, từ chính quyền đến dân chúng. Sau ngày đảo chánh đồng bào đã trải qua một tuần lễ đầy khủng khiếp vì hàng ngàn nhà Việt kiều bị đập phá, nhiều gia đình tan tành sự nghiệp. Nếu lúc đó sự chuyển ngân bị phát giác thì chẳng khác nào chúng tôi tự chui vào hang cọp đói! Nhận biết việc nầy có thể trở thành một hoạn nạn lớn, có thể nguy đến tính mạng, chúng tôi cầu xin cánh tay quyền phép của Chúa đưa ra giúp chúng tôi vượt qua cơn nguy khốn! Chúng tôi cầu Chúa khiến cho nhân viên nhà Băng ở Paris lấy hồ sơ chuyển ngân của tôi ra làm sớm và gởi biên lai qua cách mau lẹ trước thời gian có lệnh kiểm duyệt thơ từ.
Cám ơn Chúa, nhà băng thật có làm việc mau lẹ hơn những ngày thường. Tuần sau chúng tôi nhận được một thơ từ nhà Băng tại Paris gởi đến. Tôi cầm thơ lật qua lật lại, thấy không có dấu kiểm duyệt. Tôi cảm tạ ơn Chúa và nhận thấy mình như thoát được cơn hoạn nạn lớn! Ngày hôm sau, chúng tôi nhận được một thơ từ Sài Gòn gởi đến có đóng dấu kiểm duyệt của bưu chính Cao miên. Thật Chúa là Đức Chúa Trời quyền năng. Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với chúng tôi, và ra tay cứu giúp đúng lúc và kịp thời. Nếu bức thơ nhà băng chỉ đến trễ một vài ngày, là tôi bị sa vào tay những người hung ác, đã nuôi mộng từ bao nhiêu năm qua muốn trả thù và cướp giực sản nghiệp của Việt kiều. Cám ơn Chúa còn có sự may mắn hơn nữa, là tuần sau, tôi tình cờ gặp một người quen đi Pháp. Tôi liền viết một thơ trao tay và nhờ người khi qua tới Paris bỏ vào thùng thơ. Trong thơ tôi xin nhà băng hủy bỏ địa chỉ của tôi ở Nam vang vĩnh viễn… Thế là chúng tôi kể như được hoàn toàn thoát nạn. Cám ơn Chúa đã giúp chúng tôi nhiều may mắn!
ƠN CHÚA CHO BÁN ĐƯỢC HAI CĂN NHÀ SAU MỘT THỜI GIAN
NHIỀU KHÓ KHĂN
Chúng tôi đã thu xếp được nhiều việc, nhưng còn lại hai căn nhà ở Long thành và Nguyễn Tri Phương thì không làm sao bán được vì những căn nhà nầy đã cho mướn. Có nhiều người muốn mua, nhưng người mướn nhà cứ ngăn cản, viện lẽ họ sẽ mua, mặc dù họ không có đủ tiền. Thật khó cho chúng tôi vì không làm sao bán được. Vả lại, ngày giờ đi Pháp cũng gần đến. Chúng tôi cầu xin cánh tay Chúa can thiệp giùm cách nào để có thể bán được 2 căn nhà đó. Việc bán được nhà cũng là một dấu chứng mà chúng tôi cầu nguyện từ lâu để biết ý Chúa có kêu gọi chúng tôi sang Pháp hầu việc Chúa hay không?
Cảm tạ ơn Chúa, trước ngày đi Pháp độ chừng vài tháng chúng tôi được thơ những người mướn nhà gởi đến xin tôi về gấp để làm giấy bán nhà cho họ. Thế là chúng tôi đã thu xếp được mọi việc tại Việt Nam do Chúa hoàn thành theo kế hoạch của Ngài, như Kinh Thánh có ghi những lời dạy dỗ của Đavít theo kinh nghiệm của ông: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê hô va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy. Hãy phó các việc mình cho Chúa thì những mưu ý mình sẽ được thành công” (Thi thiên 37:5; Châm ngôn 15:3)
ƠN CHÚA CHỮA LÀNH BỆNH THẤP KHỚP CHO VỢ TÔI TRƯỚC NGÀY SANG PHÁP
Trước ngày chúng tôi sang Pháp độ vài tháng, vợ tôi thình lình bộc phát lên chứng bệnh thấp khớp, hai đầu gối sưng lên nhức nhối không đi được. Bà phải nằm dưỡng bệnh cả tháng. Bác sĩ khám và cho biết bệnh rất khó trị. Chúng tôi thấy một bà cùng xóm, cũng đau giống như bệnh của vợ tôi, hai đầu gối sưng lên phải đến bác sĩ chích lấy nước ra và sau đó băng bột, nhưng cũng không chữa lành dứt được.
Ngày đi Pháp đã gần mà vợ tôi mắc một chứng bệnh khiến cho không đi được. Vậy làm sao lên đường đây? Hơn nữa, tình hình trong xứ càng ngày càng có thêm lắm điều khó khăn! Chúng tôi tha thiết nài xin một phép lạ từ cánh tay toàn năng của Đức Chúa Trời chữa lành chứng bệnh nguy hiểm cho vợ tôi được mạnh, thì đó sẽ là thêm một bằng chứng để biết rõ hơn Chúa muốn dùng chúng tôi để hầu việc Ngài ở Pháp. Dù vậy, nếu Chúa muốn chúng tôi tiếp tục hầu việc Ngài ở Pháp, Cao miên hay Việt Nam, nơi nào cũng đều tốt cả.
Cảm tạ ơn điển diệu kỳ của Chúa, Ngài đã nhậm lời cầu nguyện, nên vợ tôi được chữa lành hoàn toàn trước ngày sang Pháp. Thật cảm tạ Cứu Chúa Jê-sus vì chính Ngài là Đấng gánh lấy bịnh tật của chúng ta như lời Chúa trong Êsai 53:4-5 rằng: “Thật, Người (Jêsus) đã mang sự đau ốm của chúng ta… Nhưng Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người (Jêsus) chịu, chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.” cảm tạ ơn Chúa.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
ƠN CHÚA PHÙ HỘ TẠI NAM VANG TRƯỚC CẢNH KIỀU BÀO
Ở CAO MIÊN BỊ CƯỚP GIỰT…
Sau cuộc đảo chính ở Nam vang (Tháng Tư 1970), nhà cầm quyền mới ra lịnh trục xuất tất cả Việt kiều, cùng tịch thu tài sản của họ. Quốc hội thì sẽ bỏ thăm biểu quyết việc nầy. Đồng bào vì sợ và cũng khôn ngoan hành động trước khi quốc hội biểu quyết tịch thu tài sản, nên gấp rút bán nhà, đất, xe cộ và đồ đạc với giá rẻ mạt, chỉ còn độ 20 đến 30% giá trị trước đó. Những người bán được cũng còn kể là may; có người ở thôn quê hoặc ở thành phố nhỏ bị hăm dọa, bỏ nhà cửa chạy trốn để cứu mạng nên chẳng còn chi hết! Người Cao miên đã từ lâu nghe lời tuyên truyền của báo chí nuôi mộng báo thù người Việt, nhất là cướp giựt cho hết sản nghiệp của họ khi có cơ hội. Hôm nay cơ hội “Ngàn năm một thuở” đã đến, họ hiệp nhau hàng ngàn người (giới đạp xích-lô là đông nhứt) vào buổi tối, cầm dao, mác, gậy gộc luôn với bao bị để di đánh phá nhà người Việt. (Thời gian nầy nhà cầm quyền Cao miên làm ngơ để cho dân chúng tự do đi cướp phá, và sau một tuần mới có lịnh cho cảnh sát đến can thiệp cho qua loa).
Khi những người nầy kéo đến, đồng bào hoảng sợ chạy trốn; mặc sức cho họ tung hoành như chổ không người. Sau những đêm đập phá và cướp giựt, những căn nhà của người Việt chỉ còn là những cái nhà trống: Bàn, ghế, chén, bát bể gãy, đồ đạc nằm ngổn ngang, cái gì quí thì họ lấy đem đi hết. Nhưng thời may là việc đập phá chỉ kéo dài trong một tuần lễ, nên vẫn còn sót lại nhiều nhà kiều bào chưa kịp bị đập phá. Thiệt hại nặng nhứt là xóm nhà ở Cầu Lầu, là xóm có đông người Việt sinh sống, và rất sung túc. Chỉ nội trong đêm đầu là đã có hàng ngàn căn nhà không còn lại món gì đáng giá. Chúng tôi có đến tại chổ để thăm viếng và an ủi đồng bào, nhưng trước cảnh hoạn nạn quá khủng khiếp, chúng tôi không thể nào có đủ lời để xoa dịu nổi đau lòng của họ!…
ƠN CHÚA CỨU NHÀ THỜ KHỎI BỊ ĐỐT
Những người thù ghét người Việt đã đập phá được mấy đêm, nhưng họ chưa đến xóm của nhà thờ Tin lành. Có một người Miên quen rất tử tế ở kế bên nhà chúng tôi đến cho chúng tôi hay: “Có nghe bọn chúng bàn luận đêm nay sẽ đến đốt nhà thờ Tin lành, và chúng đã mua xăng. Vậy Mục sư cho bà và các cháu tản cư trước.” Người cũng đề nghị với chúng tôi nên cho cảnh sát hay để can thiệp, “Nếu Mục sư bằng lòng tôi sẽ giúp”. Chúng tôi rất cám ơn người và nhờ người đi báo tin tự sự với cảnh sát.
Chúng tôi liền hiệp chung nhau cầu nguyện, xin Chúa giải cứu nhà thờ cùa Ngài, xô đuổi bọn gian ác và xin Chúa xui kiến cho cảnh sát có thể đến kịp. Thật đúng như người lân cận đã nói. Vừa 7 giờ tối là có hàng ngàn người đến đập phá các cửa tiệm ở ngã tư, cách nhà 2 thờ chừng 100 thước. Từ trong tư thất cạnh nhà thờ, chúng tôi nhìn thấy chừng năm, sáu người đi lại phía nhà thờ chờ sẵn để khi đoàn dân đông kéo đến là thi hành mưu ác. Nhưng Chúa lại phá mưu của họ, khiến cho đoàn đông chỉ thích đập phá các cửa tiệm nên đi luôn phía kia đường, chớ không quẹo qua nhà thờ, nên các anh xách thùng xăng lần lượt rút theo đoàn người đông. Chúng tôi hết sức cảm tạ ơn Chúa.
Đã qua khỏi được một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi thúc giục người lân cận đi báo tin cảnh sát một lần nữa, chúng tôi cứ hiệp chung nhau cầu xin Chúa can thiệp khiến cho cảnh sát có thể đến kịp lúc nếu đoàn dân kia đến phá nhà thờ. Cám ơn Chúa, đúng 6 giờ chiều, có chừng 10 cảnh sát đến canh gác trước cửa nhà thờ. Độ chừng vài chục phút sau, bọn đập phá cũng ào đến hàng ngàn. Chúng xô lấn với 10 cảnh sát; cảnh sát bị yếu thế hơn họ. Chúng tôi đứng nhìn xem, nhận thấy phút nguy sắp đến! Nhưng cảm tạ ơn Chúa rất diệu kỳ! Liền lúc đó, có một xe chở đầy cảnh binh đến tăng cường vừa kịp lúc. Xô đẩy bọn chúng ra xa được chừng vài chục thước. Nhưng chúng cứ đứng chờ mãi cho đến 12 giờ khuya, hy vọng cảnh binh rút về sẽ thi hành mưu ác.
Cám ơn Chúa, lúc bấy giờ nhà cầm quyền cũng nhận thấy dân chúng đã đập phá nhiều nhà lắm rồi. Họ cũng muốn chấm dứt tình trạng hỗn loạn nên có lịnh cho cảnh binh ở lại bảo vệ nhà thờ Tin lành. Đêm đó, có một tiểu đội cảnh binh ở lại canh gác nhà thờ cho đến sáng, và sau đó, một tiểu đội lính dù đến thay thế và đóng binh luôn tại nhà thờ trong hai tháng trường. Khi đã thấy trật tự được hoàn toàn vãn hồi họ mới rút di. Thật cảm tạ ơn Chúa, Ngài đã giải cứu nhà thờ và gia đình chúng tôi kịp lúc, đúng giờ. Nếu đêm đầu mà Ngài không giục đoàn người đi hướng khác, nếu cảnh sát đến trể ít phút, cũng như hiến binh đến tăng cường không kịp, thì nhà thờ có thể đã bị đốt, tư thất nơi chúng tôi ở chắc cũng không thoát nạn.
ƠN CHÚA GIẢI CỨU CHO GIA ĐÌNH KHỎI BỊ TẬP TRUNG
Sự tập trung người Việt diễn ra lần lần từng xóm một (vì lúc bấy giờ quân Việt cộng tấn công mạnh vào các tỉnh gần thủ đô Nam vang. Nên chính phủ lâm thời Cao miên cho lịnh tập trung tất cả Việt kiều, lấy cớ là sợ họ sẽ làm nội công cho Việt cộng). Họ đem kiều bào vào những trường học, nhà thờ, chùa và những nhà trống nào lớn có thể chứa được nhiều người. Một buổi sáng kia, hàng trăm cảnh sát đến bao vây vùng chung quanh nhà thờ Tin lành bắt đi tất cả người Việt. Mặc dù là người đang đau yếu, hoặc mới vừa sinh con một vài ngày, chúng cũng không tha thứ cho ở lại ít ngày. Dưới con mắt họ lúc bấy giờ, họ coi người Việt như tù cần phải bắt đem vô khám, nhưng có điều khá hơn tù là họ cho phép mỗi người được xách theo chỉ hai vali, hoặc hai rương đồ đạc, mặc dù người đó có cả một tiệm buôn lớn chẳng hạn. Trong hoàn cảnh gấp rút, có người ngẩn ngơ chẳng biết món gì mang theo, món gì phải bỏ, rốt cuộc bị cảnh binh kéo đi tay không! Cả kiều bào trong xóm bị gom lại trước cửa nhà thờ Tin lành để chờ xe nhà binh đến chở đi. Chúng tôi lén hé cửa để xem, nhìn thấy kiều bào, kẻ đứng người ngồi khoanh tay la khóc, vẽ mặt đầy thểu não! Có kẻ đang bị lùa đi, tay xách gói, tay bồng bế con nhỏ trông thảm thương. Cũng có người đang đau phải nhờ hai người dìu hai bên. Còn những tên cảnh binh Cao Miên như được thời thế la hét ồn ào.
Chúng tôi khóa cửa lại cách chắc chắn và ra sau nhà bếp cầu nguyện: “Chúa ơi! Ngài là Đức Chúa Trời toàn năng, là Đấng chúng con phục sự mấy mươi năm qua. Hôm nay xin Ngài ban đạo binh Thiên sứ của Ngài gìn giữ và bảo vệ chúng con khỏi bị bắt vào trại tập trung”. Chúng tôi bàn tính với nhau: Dầu chúng có bắn vào cũng không mở cửa; ngoại trừ trường hợp chúng phá cửa vào được thì mới chịu đi. Cảnh binh đến căn nhà kế bên vách và leo lên lầu bắt cả thảy. Kế đó, chúng dập cửa nhà chúng tôi dữ dội, nhưng cám ơn Chúa, là chúng chỉ đi tay không, nên không có gì để cạy cửa. Rồi một vài phút sau, chúng trở lại đập cửa một hồi nữa (có lẽ chúng lầm tưởng chúng tôi đã bị lôi đi rồi) nên bỏ đi qua bên kia đường. Chúng tôi lén nhìn qua, thấy chủ nhà bên kia không mở cửa, chúng chạy kiếm sà beng cạy cửa, và sau khi mở được, chúng dẫn họ đi và chẳng cho đem theo thứ gì. (Đó là qui luật của chúng, vì trong trường hợp không hợp tác, chúng phải cạy cửa thì gia đình đó không được mang theo món đồ nào).
Đã được thoát nạn, chúng tôi đóng cửa ở luôn trong nhà gần một tháng cho đến khi có Đại sứ Việt nam Cộng hòa đến Nam vang can thiệp được có hiệu lực. Sau đó tình hình cũng có vẻ hơi êm dịu đi đôi chút. Tôi nói êm dịu là có ý nói chung người Miên bớt hà hiếp và đánh đập người Việt; còn về lịnh tập trung là họ còn đang thi hành nghiêm chỉnh!
Đồng bào bị vào trại thì quá dau khổ vì đã mất hết sản nghiệp nên rất buồn rầu; còn chính phủ thì chẳng trợ cấp gì cả; mọi người phải tự lo lấy bản thân nên có người bị đói khát. Sự kiện kéo dài mấy tháng như vậy thật đau thương cho số phận người Việt. Hơn nữa, thỉnh thoảng chúng vào trại tập trung để bắt hàng trăm người cột tay dẫn đi để làm bia đỡ đạn tại chiến trường khi chúng tấn công quân Việt cộng. Không biết bao nhiêu mạng người phải chịu chết oan uổng!…
Về phần chúng tôi tuy thoát nạn khỏi bị đưa vào trại tập trung, nhưng ở mãi trong nhà cũng hết đồ ăn, nên tôi phải liều lĩnh lái xe đi chợ. Khi đến chợ, chưa mua được gì đầy đủ thì gặp cảnh sát chận xét. Anh ta kêu tôi lại định bắt vào trại, nhưng rất may trong túi còn 700 Ria, tôi liền móc đưa hết cho. Nhưng hắn đòi 3.000. Tôi vét hết trong túi tiền lẻ thêm được 70 đồng nữa và nói chỉ có bao nhiêu đó thôi. Biết tôi chỉ có bấy nhiêu, nên tên ác ôn ấy cho tôi về. Thật cám ơn Chúa, tôi không hiểu sao ngày đó tôi đem theo số tiền nhiều như vậy, nếu không có tiền để hối lộ thì chắc tôi đã bị đưa vào trại tập trung. Và nếu tôi bị vào trại tập trung thì không làm sao thu xếp được việc gia đình và các giấy tờ cần thiết để chuẩn bị lên đường sang Pháp. Thật cảm tạ ơn Chúa rất diệu kỳ, vì mọi việc lớn nhỏ điều có bàn tay bí mật của Chúa lo liệu và tính trước, cũng như cứu giúp kịp thời và đúng lúc, tùy theo mọi hoàn cảnh xảy đến. Thật như Chúa đã phán: “Ta sẽ nắm chắc tay hữu ngươi và phán cùng ngươi rằng: đừng sợ, Ta sẽ giúp đỡ ngươi” (Êsai 41:13) “Hãy trao sự lo lắng mình cho Ngài vì Ngài luôn săn sóc anh em” (I Phierơ 5:7).
ƠN CHÚA GIÚP CHO MUA ĐƯỢC VÉ MÁY BAY MỘT CHIỀU
Đều chúng tôi hết sức lo lắng là phải kẹt mua vé máy bay “khứ hồi”. Khi hỏi thăm hãng máy bay, cũng như Tòa Đại sứ Pháp, họ đều trả lời là không biết được, vì phải tùy theo lịnh chính phủ, nên phải chờ khi xin giấy xuất dương của nhà cầm quyền Cao miên cấp cho mới định đoạt được. Chúng tôi tha thiết cầu nguyện, xin Chúa khiến cho nhà cầm quyền cho phép chỉ mua một vé “khứ” mà thôi; vì nếu phải mua vé “hồi” nữa thì tốn quá nhiều tiền, mà khi qua đến Pháp rồi, không hồi cũng không lấy tiền lại được. Dù lúc đó có bán lại được vé “hồi” cũng khó khăn và lỗ lã. Thật vậy, gia quyến chúng tôi gồm 8 người, nếu chỉ trả tiền vé máy bay một chuyến “khứ” thôi cũng đã tốn 285.000 ria (tương đương 5.000 US dollars). Nếu phải trả “hồi” nữa là 570.000.00 (tương đương là 10.000 dollars, tính theo giá hối xuất năm 1970). Do đó, chúng tôi phải chuẩn bị tiền mua vé khứ hồi bằng tiền Ria. Nhược bằng nhà cầm quyền Cao miên không cho mua bằng Ria, thì phải mua bằng Dollars theo hối xuất chợ đen, phải tốn thêm 2.000 đô nữa!
Cám ơn Chúa, đến ngày chúng tôi xin giấy xuất dương, thì có lịnh thay đổi tạm thời dễ dàng. Nhà cầm quyền Cao miên cho phép chúng tôi trả bằng tiền Ria cũng như cho mua vé một chuyến khứ. Thật cảm tạ ơn Chúa, là Đấng có đáp ứng lời cầu nguyện của chúng tôi nên lúc ra đi có được một vài việc dễ dãi và may mắn. Nhờ vậy, nên chúng tôi còn dư lại một số tiền để đem qua Pháp xoay sở trong buổi đầu mới đến. Thật cảm tạ ơn Chúa!
Khi chúng tôi qua Pháp được vài tháng, có gặp các bạn qua sau nói lại, họ phải trả bằng dollars, chớ nhà cầm quyền không cho trả bằng Ria nữa như lúc chúng tôi ra đi. Nghe vậy, chúng tôi càng thêm lòng cảm tạ ơn Chúa. Vì biết rằng của cải và tiền bạc là do Chúa ban cho y như Chúa đã phán trong Phục truyền 28:3,6,12 rằng: “Ngươi sẽ được phước trong thành và được phước ngoài đồng. Ngươi sẽ được phước khi đi ra và sẽ được phước khi đi vào. Chúa sẽ ban phước lành tại kho lúa và trong các công việc của ngươi… Chúa sẽ làm cho ngươi được của cải, Chúa sẽ mở kho báu của Ngài… ban phước cho mọi công việc tay ngươi.” Cảm tạ ơn Chúa. Ha lê lu gia!
ƠN CHÚA DỰ BỊ MỘT NGƯỜI GIÚP CHIẾU KHÁN GIẤY THÔNG HÀNH
Cuộc hành trình bị trở ngại ở điểm cuối cùng, vì chúng tôi còn một căn nhà đúc 3 từng ở Nam vang không thể bán được. Hơn nữa, tình hình thời cuộc lúc bấy giờ thật căng thẳng, vì quân đội Việt cộng đang chĩa mũi dùi thẳng vào Nam vang, chỉ còn mấy chục cây số nữa là tới tận Thủ đô xứ Chùa tháp. Chúng tôi bối rối vì sợ bị kẹt vào giữa trận chiến lớn, có thể bị nguy hiểm vì bom đạn, hoặc bị người Miên trả thù giết chết lúc hai bên hỗn chiến. Chúng tôi lấy đức tin, tin cậy nơi sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời là Đấng có quyền phép lớn lao vì không có điều chi khó cho Chúa. Nên tôi đem tất cả 5 giấy thông hành đến Tòa Đại sứ Việt Nam để xin chiếu khán sang Pháp.
Khi đến Tòa Đại sứ Việt nam, tôi gặp những nhân viên mới từ Sài gòn đổi lên Nam vang nên chẳng quen biết một ai. Hơn nữa công việc họ thật bề bộn, vì luôn có hàng trăm Kiều bào đang chờ đợi. Khi chúng tôi trình 5 giấy thông hành để xin chiếu khán, thì họ cho biết hồ sơ xin sang Pháp của chúng tôi bị thất lạc, không biết ở đâu mà tìm, vì các nhân viên củ đã đổi đi hết thảy. Tòa Đại sứ thì mới dọn đến đây một tuần, nên tất cả sổ sách và hồ sơ nằm ngổn ngang, không biết hồ sơ chúng tôi nằm ở đâu để lục kiếm. Đáng lý ra họ phải cố gắng tìm giùm cho được để phục vụ đồng bào chớ? Nhưng ở đời có những sự kiện thực tế là như vậy đó!
Việc khó khăn càng làm cho chúng tôi thêm bối rối. Trở về nhà, chúng tôi tha thiết cầu xin cánh tay Đức Chúa Trời can thiệp cách nào cho gặp được người tử tế, sẵn lòng giúp đỡ lục kiếm hồ sơ. Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại Tòa Đại sứ, xin vào gặp ông Đại sứ. Nhưng chúng tôi chỉ gặp ông cố vấn Đại sứ là ông Lê Nhung (Lúc bấy giờ ông Đại sứ Phước chưa lên Nam vang nên ông Lê Nhung, Cố vấn cho Đại sứ thay thế). Ông ta là người có dáng điệu tao nhã, tính tình vui vẻ, ăn nói bặt thiệp, tiếp chuyện với chúng tôi cách thân mật. Sau khi nghe chúng tôi trình bày tự sự, thì chính ông ta đi lục kiếm được sổ sách và giao cho tôi tìm tên họ. Sau khi tôi tìm được tên họ của chúng tôi trong sổ đem đến cho ông, ông liền cho lịnh chiếu khán và chỉ trong vài ngày là mọi sự điều xong tất cả. Cảm tạ ơn Chúa. Ngài đã dự bị cho chúng tôi được gặp người tử tế giúp cho qua đoạn đường chót đầy khó khăn! Ha lê lu gia! Ngợi khen Chúa.
ƠN CHÚA NGĂN TRỞ KHÔNG CHO BÁN ĐƯỢC NHÀ…
Chúng tôi cố gắng tìm người mua nhà hơn bốn tháng (từ tháng 3 đến tháng 7) nhưng không bán được, vì nhà cầm quyền cấm không cho sang bộ những nhà do người Việt đứng tên. Chúng tôi đã đồng ý bán được hai lần nhưng cuối cùng phải trả lại tiền đặt cọc. Cũng may, nếu hai lần trước mà chúng tôi bán được nhà, chắc đã bị cướp giựt hết, vì lúc ấy tình hình còn rối loạn và lịnh tập trung còn thi hành truyệt để; nhưng vì sự việc gấp rút cho cuộc hành trình nên chúng tôi liều lĩnh bán.
(Căn nhà này Chúa cho chúng tôi vì trước đó tôi có ký giao kèo với Giáo sĩ và Hội thánh, chịu trách nhiệm về tiền bạc đứng ra cất hai căn nhà. Hội thánh lấy một căn làm tư thất; còn căn kia bán để trang trải sở phí, lời lỗ tôi phải chịu. Lúc đó Hội thánh đã kêu thầu khoán xây nhà trên đất của nhà thờ nhưng không ai chịu lãnh cất, vì thầu khoáng đứng cất phải chia 3: Họ lấy hai căn, chủ đất nhận một căn. Vì phần đất của nhà thờ không đủ cất 3 căn nên không ai nhận xây 2 căn để chia. Phần nhà cầm quyền thì cho kỳ hạn kiến thiết gấp rút nội trong 3 tháng; nếu Hội thánh không cất, thì họ sẽ lấy đất lại cho người khác. Vì quyền lợi tối cần cho Hội thánh, nên chúng tôi cậy ơn Chúa đánh liều đứng ra chịu trách nhiệm kiến trúc, nhận 1 căn thay vì 2 căn như các nhà thầu khác. Nhờ đó Chúa cho chúng tôi sở hữu được 1 căn phố mà chúng tôi cần bán trước khi ra đi.)
KHỎI MẤT ĐẤT, CÒN ĐƯỢC LỜI ĐẤT
Nhớ lại lúc chúng tôi đang kiến trúc hai căn nhà ấy, có nhận được thông cáo nhà cầm quyền cho hay rằng: “Sau khi sở công chánh đặt ống cống dọc theo hai bên lộ, thì trước cửa nhà của ai thì người đó phải tự lót gạch.” Do đó, khi xe đào đất (để làm cống) làm trước nhà người lân cận thì ông nầy cho tiền người tài xế bảo móc đất bên chúng tôi đổ về phía bên đất của ông ta (vì người có ý lót gạch trước cửa mà khỏi mua thêm đất. Vì nơi đặt ống cống là đường mương nên ai cũng phải mua thêm đất mới lấp được lề đường cho bằng phẳn).
Khi xe móc đất phía chúng tôi thì lại đổ cả về bên đất người lân cận (Người bạn láng giềng nầy là Đại tá hàm, một cán bộ cao cấp của Việt cộng đang mở tiệm buôn bán để kinh tài). Vợ tôi thấy sự việc như vậy, lòng nôn náo chạy vào nhà kêu: “Ông ơi! Hãy ra coi! Xe móc đất bên mình bỏ hết bên kia!” Tôi liền chạy ra đứng nhìn.Thật đúng như vậy. Mất của cũng sốt ruột, tôi muốn đi đến khiếu nại! Nhưng thình lình Chúa nhắc tôi: “Hởi con! Hãy phó thác các công việc mình cho Đức Giê hô va. Chớ phiền lòng vì kẻ ác.Tay Đức Giê hô va há ngắn không cứu giúp được sau?” (Châm ngôn 16:3; Thi thiên 37:1; Êsai 59:1). Cảm tạ ơn Chúa, lòng tôi cảm thấy bình an và cầu xin Chúa xui giục người móc đất đổ bên kia ít ít thôi, để cho chúng tôi khỏi bị thiếu nhiều đất lúc lót gạch; vì biết rằng mỗi xe đất phải trả ba, bốn trăm Ria. Trong lúc đó, chúng tôi thấy gia quyến người lân cận đứng nhìn xe móc đất mà miệng mỉm cười như đắc ý!
Vài tháng sau, lúc sở công chánh đặt ống cống xuống, người lân cận vì nóng lòng việc buôn bán nên lật đật mua cây, ván và mướn người đóng nọc, đóng ván chận chắc chắn theo ranh mương chừng bốn thước để làm đập chận đất. Xong, ông ta mướn xe ủi đất xuống. Đất vun lên vì quá nhiều!… Cha con, chồng vợ hết sức vui vẻ, xúm ra dậm đạp cho dẽ dặt!
Thật Chúa là Đức Chúa Trời “Ngài cười chúng nó”, Ngài là Đấng phá mưu kẻ ác vì “Chúa binh vực con cái Ngài”….
Rồi một đêm kia, có một đám mưa rất lớn đổ xuống như thác đổ. Đập ván bị ngã, đất từ bên đó tuông xuống cả bên chúng tôi. Khi nước rút đi, chúng tôi nhìn xuống mương thấy hai bên đất bằng nhau. Chúng tôi cười và cảm tạ ơn Chúa vì Ngài cho đất trở về lại bên chúng tôi. Chúng tôi nhìn qua nhà người lân cận thấy cả gia đình lớn nhỏ đứng xem, mặt mày buồn bả! Vì việc buôn bán, họ cần mau lẹ sửa lại để có đường cho khách hàng ra vào. Người kêu thợ sửa lại đập cho chắc hơn nữa và mua mấy xe đất đổ thêm cho bằng phẳng. Rồi ít ngày sau, cũng có những cơn mưa lớn như lần trước. Đập lại bị bể, đất bên người cũng chảy qua bên đất chúng tôi. Rồi người cũng làm như vậy, cứ sửa đập và mua thêm đất. Rồi trời cũng mưa như vậy, đất bên người chảy qua bên mương chúng tôi, càng ngày càng đầy lên, cho nên đến ngày chúng tôi lót gạch thì khỏi mua thêm xe đất nào! Thật cảm tạ ơn Chúa, nếu trường hợp nầy không xảy ra thì ít lắm chúng tôi cũng phải tốn hàng ngàn bạc để mua thêm đất.
Cám ơn Chúa, bài học yên lặng để sống an lành với người lân cận rất tốt đẹp! Như tục ngữ Việt nam ta có câu: “Bà con xa không bằng láng giềng gần.” Ngược lại, người lân cận chúng tôi vì tánh tham lam nên phải bị lỗ lã. Chúng tôi nghe người nói lại: “Phải đổ hết 1.500 tiền đất và tiền lặt vặt nữa”… Thật như câu: “Tham thì thâm”, không bao giờ sai! Cũng giống như quan điểm của tác giả Châm ngôn đã nói: “Hoạnh tài ắt phải hao bớt” (Châm ngôn 13:11).
ƠN CHÚA TIỀN ĐỊNH VIỆC BÁN CĂN NHÀ THẬT LẠ LÙNG!
Lúc bấy giờ giấy thông hành của chúng tôi được chiếu khán xong đã 18 ngày rồi. Chúng tôi đang ngày đêm trông chờ cánh tay của Đức Chúa Trời trợ giúp, để nhờ Ngài mở đường, vạch lối cách nào bán cho được căn nhà dù hy vọng dường như thật mỏng manh. Chúng tôi trông chờ nhà cầm quyền Cao miên thay đổi sắc lịnh cấm sang bộ nhà người Việt; nhưng cấm lịnh không có gì thay đối!
Song cảm tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài đã sắp đặt cho chúng tôi đâu đó đúng theo chương trình kế hoạch, nên khiến có người đến mua nhà lần nữa. Đây mới là người Đức Chúa Trời đã dự bị. Người là một Đại tá, cộng sự viên của Thủ tướng Lonnol. Ông là người Miên gốc Việt đến mua nhà và đòi mua trước mặt Notaire (vị công chứng). Tôi đem giấy tờ nhà đến cho Notaire xem. Notaire nói: “Tuy ông đứng tên cất nhà, nhưng ông chỉ là người thay mặt Hội, vì trong bản đồ có ghi bằng chử Khmer: “NGƯỜI THAY MẶT.” Vậy nhà nầy là nhà của Hội. Ai có đủ thẩm quyền thay mặt Hội thì tôi mới cho phép bán.” Mừng quá! Tôi liền đến xin cụ Giáo sĩ Jean-Funé đứng bán giùm. Nhưng cụ có việc cần đi Thái lan nên giao quyền lại cho Ông Giáo sĩ Piaget bán. Khi bán xong, 5 ngày sau là chúng tôi lên máy bay.
Thật cám ơn lớn lao của Đức Chúa Trời, Ngài đã dự bị trước mọi việc rất lạ lùng! Chúa đã thấu rỏ 5 năm sau nầy, chúng tôi phải gặp sự khó khăn trong việc bán căn nhà để ra đi; nên xui giục cho kiến trúc sư ghi thêm mấy chữ trong bản đồ: “NGƯỜI THAY MẶT” bằng chữ Khmer; chớ không ghi bằng chữ Pháp để cho tôi không biết. Nếu tôi biết thì đã xin điều chỉnh lại trước đó thì hôm nay không làm sao bán được căn nhà, vì chính quyển có sắc lịnh cấm sang tên nhà người Việt. Thật cám ơn Chúa về sự lo liệu của Ngài đối với chúng tôi rất vẹn toàn. Nhờ vậy mà chúng tôi bán được căn nhà; trong khi có hàng trăm, hàng ngàn kiều bào khốn khó vì không bán được sản nghiệp để ra đi. Cám ơn Chúa hơn nữa, Ngài đã dự bị một Ông Đại tá mua nhà, mà còn giúp tôi thoát nạn mấy ngày sau đó nữa!…
ƠN CHÚA CỨU KHỎI QUYỀN THẾ MUỐN TỐNG TIỀN CHÚNG TÔI
Lúc bấy giờ có ai nhiều tiền là mau mất mạng. Tên Cò ác ôn ở bót gần nhà tôi đã theo dõi việc bán nhà của tôi từ lâu. Đã có lần hắn kêu tôi đến hăm dọa nhưng biết tôi chưa bán được nhà. Hắn đang chờ tôi bán được nhà sẽ làm thịt! Chúng tôi biết tên Cò nầy vốn là một người nguy hiểm nên lúc bán được nhà chúng tôi yêu cầu viên Đại tá, người mua nhà, cho phép được tiếp tục treo bảng bán nhà cho đến ngày chúng tôi ra đi. Dù vậy, mấy ngày sau, tên Cò cũng biết được chúng tôi đã bán nhà, nên hắn sai lính đòi tôi lại bót. Tôi cảm biết có sự hoạn nạn nên liền vào phòng cầu nguyện, xin sự giải cứu của Đức Chúa Trời, thì cảm tạ ơn Chúa, Ngài là Đấng toàn tri nên cũng biết trước và đã dự bị sự cứu giúp thật đúng lúc và kịp thời.
Cảm tạ ơn Chúa, đang lúc tên lính còn ngồi chờ tôi, thì viên Đại tá người mua nhà bước vào, mặc quân phục và lon Đại tá, tên lính liền mọp xá. (Những lần trước Đại tá đến bàn chuyện mua nhà thì luôn luôn mặc đồ thường dân, nhưng chỉ lần nầy thì mặc quân phục). Đại tá nói chuyện với tôi có vẻ như người trong nhà, cũng trao cho tôi chìa khóa cửa để nhờ sửa lại bóng đèn.
Khi Đại tá đi, tên lính hỏi tôi: Đại tá ấy ở đâu? Tôi nói, Ông ta là cộng sự viên của Thủ tướng Lonnol, nhà ở gần bên đây, quen với chúng tôi đến chơi. Tên lính về trước thưa lại với tên Cò như thế nào, mà khi chúng tôi đến, thì Cò ta nói chuyện rất thử tế với tôi và cho về. Thật cảm tạ ơn Chúa, nếu Đại tá ngày đó không mặc quân phục và đến đúng lúc tên lính còn ngồi chờ thì chắc tôi sẽ bị sa vào tay kẻ làm tiền nguy hiểm! Tôi được biết rằng, tên Cò ác ôn nầy nổi tiếng là gian ác, vì hễ hắn đòi bao nhiêu tiền là phải có; bằng không sẽ bị thủ tiêu như nhiều kiều bào đã bị mất tích lúc bấy giờ.
Tuy đã qua được một cơn nguy nhưng còn 3 ngày nữa mới đến ngày chúng tôi lên máy bay. Ba ngày chờ đợi thấy dường như quá lâu! Chúng tôi vẫn còn lo sợ có thể gặp bất trắc nên tinh thần như bị xao động. Chúng tôi trông cho mau tới ngày lên máy bay, thì cảm tạ ơn Chúa, Hãng máy bay cho hay: Nếu chúng tôi muốn đi chuyến ngày mai, thứ Bảy cũng được, vì chuyến bay từ Nhật bổn qua còn trống 7 chổ, nên hai em nhỏ vui lòng ngồi chung một ghế, đến Ấn độ thì sẽ có đủ ghế. Cảm tạ ơn Chúa, thật là một tin vui quá bất ngờ, vì chúng tôi đang nóng nảy chờ đợi từng giờ, từng phút, vì sợ có tai biến nào bất thường xảy ra, mà hôm nay lại được đi sớm hơn hai ngày nên chúng tôi mau lẹ chấp nhận để đổi chuyến bay.
Chúng tôi rất cảm tạ ơn Chúa vì biết đây là ý chỉ của Đức Chúa Trời sắp đặt, bởi Ngài biết chúng tôi không thể ở lại Nam vang lâu hơn nữa. Dù chỉ một vài ngày cũng có thể có chuyện chẳng may, vì cả xóm ai cũng biết chúng tôi đã bán được nhà.
Chiều ngày sau, ngày 1 tháng 8 năm 1970, lúc 4 giờ, chúng tôi lên xe của hãng máy bay Air France để ra phi trường, nhưng lòng vẫn còn nhiều lo lắng, vì biết rằng tất cả số tiền bán nhà của chúng tôi đã đổi ra dollars đều giấu trong các vali quần áo. Có nhiều kiều bào đã giấu tiền như vậy đều bị chúng xét lấy hết tại phi trường.
Nhớ lại lúc chúng tôi xách đồ lên xe ca, không có một tín hữu người Việt nào đến đưa tiễn chúng tôi, nhưng trái lại, có hàng bảy, tám chục người Miên trong xóm đến giơ tay vẫy chào chúng tôi lúc xe ca bắt đầu lăn bánh. Thật cám ơn Chúa, mọi việc Chúa làm rất diệu kỳ!
ƠN CHÚA ĐƯA LÊN MÁY BAY.
Chúng tôi phải lên máy bay lúc 9 giờ tối, nhưng giờ đó nhằm giờ giới nghiêm nên phải ra phi trường lúc 5 giờ. Vì đi sớm nên chúng tôi phải chờ tại sân bay gần 4 tiếng đồng hồ. Chúng tôi rất lo lắng vì phải ở sân bay lâu như vậy, sợ những tên làm việc ở đó có nhiều thì giờ tha hồ lục soát hành lý. Nhưng cảm tạ ơn Chúa, mọi việc đều có Ngài lo liệu trước để đưa chúng tôi lên máy bay được an toàn. Vừa ra tới sân bay, chúng tôi gặp ngay ông Chánh Sở Mật thám Cao miên (Bọn lính sở thương chính chạy ra xá mọp ông và giúp xách đồ vào). Ông nầy thì lại đến niềm nở bắt tay tôi chào hỏi, nói chuyện như người quen biết từ lâu, vì ông là người gốc Việt, có đứa cháu gái lai Việt đi một mình sang Pháp du học, nên ông có ý muốn làm quen để gởi gấm đứa cháu trên đường đến Paris.
Sau đó, ông ở lại nói chuyện để tiễn đưa đứa cháu cũng như với chúng tôi cho đến phút bước ra sân bay. Cám ơn Chúa, nhờ thấy chúng tôi có quen với ông Chánh sở Mật thám nên nhân viên thương chánh đối xử với chúng tôi cách đặt biệt, chỉ coi sơ vài món đồ rồi cho xách tất cả hành lý vào cách dễ dàng, không lục xét.
Thật cảm tạ ơn Chúa. Khi ngồi nhớ lại những ngày tháng cuối cùng sống tại xứ Khmer, chúng tôi cảm thấy mình quá đơn cô và kể như chẳng còn chút giá trị gì nữa trong một xứ đầy thù nghịch. Kiều bào cũng như chúng tôi đều bị người Miên khinh rẻ và hăm dọa, đến nỗi những người da trắng mà chúng tôi quen biết cũng sợ và tránh chúng tôi mỗi khi gặp ngoài công lộ, hoặc tại nhà riêng. Nên ngày chúng tôi lên đường không có một người tiển đưa ra sân bay. Nhưng cảm tạ ơn Chúa, chính Ngài cho có người đưa tiển làm cho chúng tôi cảm thấy không khác nào mình là “NGƯỜI CÓ THẾ LỰC” trong những giờ phút cuối cùng, để không bị ai ức hiếp trước khi rời bỏ đất nước Cao miên, là nơi mà chúng tôi đã hoạt động hầu việc Chúa hơn 14 năm…
NGỒI TRÊN MÁY BAY SUY NGẪM ĐẾN ƠN CHÚA
Chúng tôi xách đồ lên máy bay, tuy nặng nhọc, nhưng lòng được nhẹ nhàng, khoan khoái, không bút mực nào có thể mô tả hết! Vì đã trải qua hơn 4 tháng gặp phải hoàn cảnh đầy biến loạn, tinh thần chúng tôi luôn bị xao động và tâm trí lúc nào cũng thấy nặng nề trước những khó khăn trong đời sống mình, cũng như sự hoạn nạn của đồng bào. Hôm nay đã lên được máy bay cách bình yên chúng tôi cảm thấy như trúc được một gánh nặng nghìn cân! Khi ngồi xuống ghế, chúng tôi luôn miệng cảm tạ ơn Chúa, là Đấng Cứu độ đã giúp chúng tôi vượt qua được một đoạn đường gây cấn nhất trong cuộc đời; tưởng rằng trước không có và sau nầy sẽ không còn gặp đoạn nào như thế nữa.
Phi cơ đã cất cánh bay cao cách nhẹ nhàng ở trên không trung thể nào, thì lòng chúng tôi cũng cảm thấy nhẹ nhàng phơi phới thể ấy! Cả gia quyến chúng tôi, mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy cười như chỗ không người, quên đi sự hiểm nguy có thể xảy ra trên cuộc hành trình, như đã có sự lo lắng lúc sắp ra đi. Vì trước đó, chúng tôi có làm giấy chính thức ủy quyền cho hai ông giáo sĩ Jean-Funé và J.J. Piaget rằng, “nếu trường hợp gia quyến chúng tôi bị tử nạn máy bay thì với số tiền mà hãng bảo hiểm bồi thường là 500.000 Dollars, xin Hội truyền giáo lãnh và dùng để kiến trúc tại Paris một Hội thánh Tin lành cho Việt kiều, cũng như mời một mục sư Việt nam qua hầu việc Chúa tại đó.”
Nhớ lại, trải qua mấy tháng đầy khó khăn, nhưng nhờ ơn Chúa chúng tôi vẫn mở cửa Đền thờ nhóm họp, không đóng cửa một tuần nào. Mặc dù ngoài gia quyến chúng tôi, chỉ có một bà tín hữu lai Tàu (bà năm Di) còn đến nhóm. Có lúc chúng tôi đang nhóm, những người biểu tình cầm gậy gộc dừng lại trước cửa, hàng trăm người hướng vô nhà thờ mắng chửi ồn ào! Chúng tôi phải bước ra phía sau đề phòng, chờ lúc họ qua khỏi hết mới trở vô nhóm lại.
Nhớ lại, ơn Chúa cũng thật lạ lùng, đã cho phép một số kẻ khuấy rối dấy lên! Do đó, chúng tôi mới đổi chương trình sang Pháp sớm hơn một năm nên có đủ thời giờ thu xếp được việc gia đình, cũng như kịp thời xin đủ giấy tờ cần thiết. Họ như vô tình thúc đẩy, giúp chúng tôi đi ra kịp thoát khỏi một nơi đầy biến loạn, để sang được nước Pháp hầu việc Chúa đúng theo chương trình và kế hoạch của Đức Chúa Trời. Thật cảm tạ ơn Chúa là Đấng Toàn tri, Toàn thiện, Toàn đức, Toàn quyền, và là Đấng Khả năng nên đã giải cứu được chúng tôi ra khỏi xứ Khmer thù nghịch một cách vẹn toàn; chẳng khác nào như chiên đã sa vào miệng sói đói, mà lại được giải cứu không bị một vết thương. Thật quyền năng Chúa rất diệu kỳ!
Sau 18 tiếng đồng hồ, chiếc phản lực cơ “Boeing” của Pháp, số 183, lướt gió, tung mây suốt đêm ngày, đáp lên đáp xuống tại Bombay và Karachi, vượt qua hàng vạn cây số cho đến sáng ngày 2/8/1970, lúc 8 giờ, thì phi cơ hạ cánh xuống phi trường Orly cách an toàn. Tất cả gia quyến chúng tôi đều được mạnh khỏe. Cảm tạ ơn Chúa.
CHƯƠNG 12
ÂN THƯỢNG ĐẾ TẠI ĐẤT PHÁP
Khi ra khỏi phi trường Orly, chúng tôi đến ngay Trường Kinh thánh Nogent như đã định. Chúng tôi được giúp đỡ để tạm trú tại đây 4 ngày để thăm bà con và anh em tín hữu cũng như để dạo chơi Thủ đô “Ánh sáng”. Lúc đang dạo chơi Paris, không thạo đường xá, chúng tôi ước ao phải chi có bản đồ thành phố để dễ bề du ngoạn! Cám ơn Chúa, vài phút sau đó, chúng tôi lượm được bên lề đường một bản đồ Paris. Nhờ có bản đồ, nên sự dạo chơi đây đó được dễ dàng hơn, khi đi cũng như lúc về. Thật cảm tạ ơn Chúa, dầu một vật nhỏ chẳng đáng giá chi; nhưng khi Chúa thấy con cái của Ngài cần và đáng cho, thì Chúa cũng sẵn sàng cung cấp ngay.
THOÁT KHỎI BỊ TRỘM TẠI TRƯỜNG KINH THÁNH NOGENT.
Mới đến Paris lần thứ nhứt, chúng tôi lầm tưởng xứ nầy không có kẻ trộm, nào ngờ xứ của các “ÔNG LỚN” nầy cũng có ăn trộm quá nhiều, không kém xứ “ANNAMITE” hoặc xứ “CAO MIÊN”.
Lúc tới nhà trường, chúng tôi để tất cả các vali ở tầng dưới, trong phòng sách của nhà trường mà không khóa cửa, luôn với số tiền bạc còn nằm trong các vali đó. Đoạn, chúng tôi đi thẳng lên lầu ngủ. Sáng hôm sau, mới hay lúc 12 giờ khuya, ăn trộm bắt thang leo lên lầu vô phòng lấy vali của một người da đen cũng mới đến nghỉ tạm nơi đó như chúng tôi. Chúng cũng vào bếp lấy đồ hộp và lặt vặt đem đi hết. Nghe vậy, chúng tôi hốt hoảng chạy xuống phòng sách xét lại các hành lý. Cảm tạ ơn Chúa, tất cả vẫn còn nguyên. Nếu chẳng may mất tiền bạc và đồ đạc trong hoàn cảnh nầy, chắc phải khổ sở lắm, vì đó là tất cả tài sản của chúng tôi mang theo lúc bấy giờ! Nhưng nhờ ơn Đức Chúa Trời gìn giữ và coi sóc của cải cho chúng tôi như người mẹ săn sóc con cái minh khi hữu sự hoặc lúc chúng tôi thiếu xót. Như lời Chúa có phán: “Ta đã gánh vác các ngươi từ lúc mới sanh, bồng ẫm các ngươi từ trong lòng mẹ. Cho đến chừng đầu râu tóc bạc, Ta cũng sẽ còn bồng ẫm các ngươi nữa.” (Êsai 46:3-4).
CHÚA ĐÃ DỰ BỊ CHO CHÚNG TÔI MỘT CÁI NHÀ ĐỂ Ở KHI MỚI TỚI PHÁP
Gia đình nào có đến Pháp một lần mới biết ở Pháp mướn được một cái nhà khó là dường nào, nhất là đối với một gia đình có đông con như chúng tôi, cả thảy gồm 8 người. Dầu phòng ngủ, họ cũng không thích cho mướn, vì sợ ồn ào hoặc trẻ con có thể làm hư hao đồ đạc.
Khi đến Toulouse ngày 5, tháng 8, năm 1970, chúng tôi tìm được cậu Chương, con của ông bà Phan Văn Thình, tín hữu ở Biên hòa. Cậu sẵn lòng cho chúng tôi tạm trú vài tháng tại căn nhà của Cậu mới mua còn bỏ trống, và sau đó, vì mùa đông tại Pháp khó mướn được nhà nên chúng tôi thương lượng trả tiền để chờ qua mùa đông. Thật cám ơn Chúa, chúng tôi mới đến xứ người mà có căn nhà để tạm trú, dù đối với gia đình đông người như chúng tôi thì hơi chật, nhưng có chổ ở tạm một thời gian để chờ mướn nhà khác thì thật không gì quí bằng! Chúng tôi cũng không quên tại đây cám ơn Cậu Chương một lần nữa đã cho chúng tôi tạm trú trong căn nhà của cậu.
CHÚA ĐÃ DỰ BỊ CHO CHÚNG TÔI MƯỚN ĐƯỢC MỘT CĂN NHÀ RỘNG RÃI
Căn nhà ở tạm này nhỏ nên chật cho 8 người. Chúng tôi bắt đầu cầu nguyện, xin Chúa dự bị cho mướn được một nhà khác rộng rãi hơn ở vùng Rangeuille, gần trường Đại học nơi mà 3 con của chúng tôi sắp vào học. Cám ơn Chúa về sự dự bị của Ngài thật lạ lùng! Chúng tôi tìm mướn được một nhà có 5 phòng, giá tiền mỗi tháng là 560 Franc, (tương đương với 120 dollars). Ông chủ nhà thì rất tử tế chịu cho mướn, nhưng trái lại, viên quản lý không bằng lòng, viện lẽ rằng, gia quyến chúng tôi đông con, sợ gây ồn ào, rồi sinh ra có sự khiếu nại của những người lân cận. Hơn nữa, nếu trường hợp chúng tôi không có đủ tiền để trả tiền nhà; trách nhiệm về phần quản lý chịu. (Tất cả chủ nhà ở Pháp khi cho mướn nhà đều đòi giấy chứng minh có lãnh lương, nếu đang thất nghiệp thị không ai chịu cho mướn. Sự dằn co giữa chủ nhà và người quản lý kéo dài hơn hai ngày. Cuối cùng, người chủ nhà chấp nhận lãnh hết trách nhiệm nếu trường hợp có điều gì khó khăn trở ngại xảy ra trong tương lai khi cho chúng tôi mướn.
Thật cảm tạ ơn Đức Chúa Trời đã dự bị cho chúng tôi gặp một ông chủ nhà rất tử tế, có thể tìm cả thành phố Toulouse cũng không gặp một người thứ hai. Nhờ vậy, nên chúng tôi mới mướn được nhà ở thoải mái hơn, với phòng khách rộng rãi mà sau đó chúng tôi đã dùng căn nhà nầy để hàng tuần một số con cái Chúa đến nhóm lại thờ phượng Chúa tạm trong 3 năm. Sau đó thì chúng tôi mới mướn thêm được một nơi khác để làm trụ sở Hội thánh và có giấy phép nhóm họp chính thức để thờ phượng Chúa.
Cám ơn Chúa, Ngài đã giúp đỡ chúng tôi vượt qua được những giai đoạn khó khăn. Trong mỗi giai đoạn nào cũng có bàn tay Chúa sắp đặt trước; còn về phần chúng tôi chỉ là những người thừa hưởng các ân huệ của Chúa. Nên chúng tôi không có đủ lời để mô tả hết ơn Ngài!
(Hình Gia đình chụp trước nhà tại Toulouse năm 1976)
ƠN CHÚA GIÚP ĐỠ CHO CÁC CON TÔI VÀO TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Khi chúng tôi đến Toulouse, vì bận rộn xin giấy kiều ngụ, và cũng vì văn phòng nhà trường đóng cửa nghỉ hè, nên khi chúng tôi đến ghi tên cho hai con chúng tôi là: Duy Tân và Ân Huệ vào học ngành Dược khoa thì đã trể ngày ghi tên, nên dù nài xin cách gì cũng không được. Chúng tôi cầu xin Chúa can thiệp và giúp đỡ cách nào để cho chúng nó có thể vào trường khỏi bị dở dang một năm học. Cảm tạ ơn Chúa. Một buổi tối kia, chúng tôi đến thăm một gia đình tín hữu, thì tình cờ gặp một ông tiến sĩ người Việt, là Giám đốc một Viện khảo cứu Khoa học tại Toulouse. Tôi trình bày việc hai con tôi muốn vào học ngành Dược nhưng đã trể việc ghi danh. Ông là người rất tử tế, nên sau đó đã sẵn lòng giới thiệu cho hai con chúng tôi được nhận vào trường. Và hơn nữa, ông còn cho phép chúng nó được vào viện của ông để tập sự, cũng giới thiệu cho một tiến sĩ đến dạy kèm thêm, cho nên lúc cuối niên học, có rất nhiều bạn học người Việt cùng lớp bị thi rớt ở lại; hai con chúng tôi đều được lên lớp. Thật là một đặc ân của Cứu Chúa có nâng đỡ việc học hành của các con chúng tôi. Cảm tạ ơn Chúa.
ƠN CHÚA TIẾP TRỢ
Ai đã đến xứ Pháp rồi mới biết sự sinh sống ở xứ nầy rất khó khăn! Về phần chúng tôi đã là mục sư tình nguyện, thì lẽ tự nhiên chúng tôi phải tự túc. Nhưng cảm tạ ơn Đức Chúa Trời, vì chính Ngài là Đức Giê hô Va Di rê (nghĩa là Đức Chúa Trời sắm sẵn) nên chúng tôi có thể nói như tác giả Đavit rằng: “Ngài là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì. Sư tử tơ bị thiếu kém và đói; nhưng người nào tìm cầu (hầu việc) Đức Chúa Trời sẽ chẳng thiếu của tốt gì. Vì nguồn sự sống chúng tôi đều ở nơi Chúa” (Thi thiên 23:1; 34:10; 36:9)
Nhớ lại, sau những tháng đầu tiên tại Pháp, có nhiều người đến khuyến khích và xúi giục chúng tôi tìm việc làm, hoặc mở tiệm ăn (Restaurant) (Tiệm ăn là một nghề dễ kiếm tiền và chỉ cân một ít vốn liếng là mở được). Nhưng chúng tôi quyết chống lại sự cám dỗ, vì nghĩ rằng: Nếu đến xứ nầy mà kiếm tiền để làm giàu, thì mình cũng như mọi người. Như vậy, Chúa cho qua đế đây để làm chi? Nên chúng tôi cứ tiếp tục nhiệm vụ rao giảng Tin lành và kể việc đó là nhiệm vụ trọng yếu cần phải làm trước hết, mọi việc khác Chúa sẽ lo liệu, như Chúa đã dạy trong Mathiơ 6:33 “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.”
Cảm tạ ơn Chúa, sau gần 7 năm hầu việc Chúa, thật Ngài có lo liệu cho chúng tôi đầy đủ, nên một lần nữa, chúng tôi nói như Đavít rằng: “Chúa là Đấng chăn giữ tôi nên tôi chẳng thiếu thốn gì.” (Thi thiên 23:1)
ƠN CHÚA GIÚP CHO XIN ĐƯỢC GIẤY KIỀU NGỤ DỄ DÀNG
Nhớ lại, trước ngày chúng tôi sang Pháp, một Giáo sĩ đã nói với chúng tôi “Bây giờ biết ông bà sang Pháp được; nhưng qua Pháp rồi, chưa chắc gì ở lại Pháp được”. Lại nữa, lúc chúng tôi mới tới Paris, có một tín hữu đã nói với chúng tôi “Giấy kiều ngụ xứ nầy rất khó xin, nếu đúng ngày giấy thông hành hết hạn mà xin giấy cư trú chưa được, thì sẽ được cảnh sát đến mời ra khỏi xứ! Dầu khó, nhưng tôi có thể xin được, vì tôi có một nghề nghiệp dễ xin ở lại. Theo tôi biết luật lệ tại đây, thì tình trạng của mục sư còn khó hơn tôi nhiều.”
Dù nghe toàn là khó khăn nhưng chúng tôi không ngạc nhiên vì đã biết rõ về thực tế nầy từ lúc chưa đến đất Pháp. Nhưng vì lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời nên chúng tôi mới dám liều lĩnh ra đi. (Người đến Pháp muốn xin ở lại, phải có việc làm, và phải có chủ bảo lãnh mới có thể xin được giấy cư trú; nhưng người nào không có nghề chuyên môn thì không dễ gì tìm được việc làm. Mà nếu đi làm việc trong thời gian còn du lịch, thì bị trái ngược với lời cam kết của chúng tôi tại Tòa Đại sứ Pháp ở Cao miên rằng: “Khi qua tới Pháp, không được phép làm việc, dầu rằng làm việc để ăn cơm cũng bị cấm”. Như vậy, nếu tôi đi làm việc là phạm lời cam kết, trong trường hợp đó có thể bị trục xuất ngay; còn nếu không tìm được việc làm để có chủ bảo lãnh, thì làm sao xin được giấy kiều ngụ? Ấy đó là hai diều mâu thuẫn nhau).
Khi đến Toulouse, chúng tôi hiệp nhau cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng đã dẫn dắt chúng tôi đến xứ Pháp thì cứu giúp chúng tôi để có thể đóng góp phần nào vào sự hầu việc Chúa giữa kiều bào, tùy theo tài hèn sức mọn của chúng tôi hiến dâng lên cho Chúa.
Sau đó, chúng tôi tìm đến một Hội Thánh Cải chánh (Reformée) để giao thiệp. Chúng tôi liền gặp ngay Ông Mục sư Stocklin, người rất được ơn và vui vẻ. Sau khi nghe chúng tôi trình bày ý nguyện muốn ở lại để hầu việc Chúa giữa Việt kiều, Ông liền cho chúng tôi một chứng thư hợp tác để trình lên nhà cầm quyền.
Cảm tạ ơn Chúa, sau 15 ngày nạp đơn, chúng tôi được nhà cầm quyền Pháp chấp nhận cho gia quyến chúng tôi ở lại truyền giáo cho Việt kiều với thời hạn một năm, không đòi hỏi điều kiện nào khó khăn như những kiều dân khác. Cũng xin nói sơ về Nhà thờ Cải chánh nầy. Đây là một đền thờ lớn kiến trúc theo lối cổ. Bên trong có hai tòa giảng, một tòa giảng cho dành cho vị Mục sư đứng giảng mỗi tuần, cao gần hai thước; còn tòa giảng kia cao gần 4 thước để dành cho các ngày Đại lễ có quan quyền, hoặc Vua Chúa đến dự. Đã có một lần tôi được mời lên đứng bên phía cao đó để làm chứng, thật là rất ngại ngùng! Theo chuyện xưa kể lại thì nhà thờ nầy được xây trên nền của một “Lò sát sanh” của một tôn giáo kia được Vua nước Pháp cho phép xây dựng nên để đốt những người mà họ gọi là “theo tà giáo” tức là những người có Kinh Thánh và không chịu thờ bà Mari. Trong nhà thờ có bản khắc nhiều tên những người đã tử vì đạo tại đó).
Cám ơn Chúa, sau đó, chúng tôi được đổi giấy lại với thời hạn 3 năm, và hơn thế nữa, sau đó cả gia quyến chúng tôi đều xin được gia nhập Pháp tịch, nên tôi có cơ hội rộng rãi đi truyền giáo các xứ lân cận với nước Pháp, vì dân Pháp được di chuyển cách dễ dàng trong các nước của khối Thị trường Chung Âu châu.
ƠN CHÚA DỰ BỊ CHO SỰ HỢP PHÁP VỚI HỘI THÁNH TIN LÀNH TỰ DO
Nhờ cơ hội được tiếp xúc và quen với ông Mục sư Roger-Bertrand, thuộc hội thánh Tin lành Tự do, người đã bảo lãnh gia quyến chúng tôi sang Pháp, nên sau đó ít lâu, chúng tôi tìm được Hội thánh Tin lành Tự do ở Toulouse để xin chính thức hợp tác. Chủ tọa Tội thánh ấy là Mục sư Pierre Tessier rất vui vẻ nhận lời và mời chúng tôi cùng làm việc với tư cách Mục sư Phụ tá để lo cho người Việt.
Chúng tôi thường xuyên thăm viếng tín hữu và kiều bào, cùng mời họ đến nhóm họp, nên mỗi chiều Chúa nhật đều có nhóm lại thờ phượng Chúa cách vui vẻ, mặc dù buổi nhóm đầu tiên chỉ có hơn 10 người. Có lúc lại ít hơn, nhưng chúng tôi không ngã lòng vì biết rằng “Vạn sự khởi đầu nan.”
Sau gần 7 năm truyền giáo, kết quả không được như ý muốn, nhưng cám ơn Chúa, là có nhiều người được cơ hội nghe rõ về Đạo Tin lành, nhiều quyển sách nhỏ, truyền đạo đơn, và trên ba trăm quyển Kinh Tân Cựu ước đã được phân phát đến tận tay kiều bào (số sách nhỏ do ông Phan Văn Tình tín hữu Biên hòa gởi cho, Tân ước do Thánh thơ Công hội Anh quốc cung cấp).
Thật cám ơn Chúa đã lo liệu cho chúng tôi là người ra đi truyền giáo tự túc nơi hải ngoại, nhận thấy mình như cô đơn, bất lực, nhưng chúng tôi đã làm được một ít việc nho nhỏ; ấy là nhờ Chúa làm cho như Kinh thánh đã chép: “Vì mọi đều chúng tôi làm, ấy là Ngài làm cho.” (Êsai 36:12).

(Hình Gia đình chụp trước nhà thờ Tin Lành Tự Do, Toulouse)
ƠN CHÚA NGĂN TRỞ CHÚNG TÔI LÁI XE QUA ĐỒI…
Nhớ lại, tối thứ 7, ngày 18/12/71, lúc 8 giờ 30 tối, tôi lái xe đưa hai con và vài thanh niên Pháp đi nhóm thanh niên vào buổi tối thứ 7, tại nhà thờ Tin lành Tự do ở số 4, đường Montoyol. Khi đến trước cửa nhà thờ, thì các con tôi mới nhớ lại tuần trước đó, Mục sư P. Tessier có mời thanh niên đến họp tại nhà của ông đêm ấy, ở số 19, đường Imprimerie (cách nhà thờ độ 4 cây số).
Xe ngừng trước cửa nhà thờ ít phút, vì tôi hơi nhức đầu nên lưỡng lự không muốn đi. Các con cũng như các bạn thanh niên thúc giục tôi lái đi, vì chẳng những nhóm họp mà cũng sẽ có bữa ăn sau giờ họp. Nhưng tôi đưa tay lên trán mấy lần vì nghe đầu hơi ê nhức. Đoạn tôi lái xe ra khỏi đường nhà thờ, nhưng cũng chưa quyết định đi hay không? Các con tôi đinh ninh là tôi sẽ đưa chúng đi. Nhưng khi đến đường lớn, tức là chổ rẽ đi nhà Mục sư Tessier hay trở về, thì tôi lại có một quyết định bẻ lái trở về. Các con tôi cũng như các thanh niên tiếc quá la lên: “Ô, Ba lái trở về rồi.” Khi về vừa tới nhà (đoạn đường đi chừng vài cây số) thì xe thắng không được. Sau khi coi lại thì dầu thắng đã khô cạn hết.
Thật cảm tạ ơn Chúa, sự thương xót của Ngài thật lớn biết bao. Vì đường đến nhà Mục sư P. Tessier phải leo lên đồi cao và xuống hết dốc mới tới nhà. Nếu trường hợp xe lên đồi hoặc xuống dốc mà không thắng được thì sự nguy hiểm đến tánh mạng cả 5 người là điều cầm chắc. Mỗi khi tôi nhớ lại việc nầy, lòng tôi vẫn còn thấy ghê rợn, miệng không quên cảm tạ ơn Chúa là Đấng biết trước mọi sự nguy hiểm có thể xảy ra nên can thiệp đúng lúc để giúp chúng tôi khỏi bị lâm nạn! Thật cảm tạ ơn Chúa.
CẦU NGUYỆN CHO MỘT THẦY DÒNG BỊ BỊNH
Ngày kia, chúng tôi đến thăm một gia đình bán tiệm ăn (restaurant). Khi bước vào thì gặp một ông khách đang ngồi đó. Bà chủ nhà liền giới thiệu: “Đây là cậu… học ở nhà dòng, gần lên chức Cha, nhưng bị bịnh nên không làm Cha được.” Thấy người có vẻ lờ đờ, ít nói chuyện. Chúng tôi bắt đầu làm quen và sau đó, nói chuyện về quyền phép lớn lao của Chúa Jê sus, cùng mở Kinh thánh chỉ dẫn cho người về Đạo Tin lành là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu người tin. Sự chết của Chúa Jesus trên Thập tự giá, huyết Ngài đã đổ ra là để cứu rỗi linh hồn; nhưng việc bị hành hạ và đánh đập trên thân thể mà Chúa Jesus phải chịu, là để cứu thân thể của con người bị bịnh tật, như sách Êsai đã nói: “Nhưng người (Jesus) đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người, chúng ta được lành bịnh.” (Êsai53:5)
Sau gần 1 giờ, người ngồi nghe chăm chú, thỉnh thoảng người có hỏi một vài câu. Kế đó, người quỳ xuống giữa phòng ăn và nói: “Xin Mục sư cầu nguyện cho tôi được chữa lành bịnh nhức đầu.” Tôi liền dặt tay lên đầu người và cầu nguyện, xin một phép lạ của Cứu Chúa Jesus cứu người khỏi bịnh nhức đầu, để người thấy rỏ quyền năng và phép lạ của Chúa mà trở lại với Đạo Tin lành đúng theo chính giáo của Chúa để linh hồn được cứu rỗi.
Sau một tuần, chúng tôi trở lại thăm thì hết sức ngạc nhiên, thấy người nói chuyện lanh lẹ và hoạt bát như không đau chi cả, người đem Kinh thánh ra thảo luận rất vui vẻ, và sau đó người hợp tác với một vị mục sư Pháp để lo truyển giảng cho sinh viên. Cảm tạ ơn Chúa rất diệu kỳ! Ước mong người thắng hơn những bắt bớ, tiếp tục trung tín với Chúa Jesus để thân thể được khỏe mạnh và được Chúa dùng để mang đến sự cứu rỗi cho nhiều người.
CẦU NGUYỆN CHO MỘT NGƯỜI BỊ MA QUỈ ÁM ẢNH KHUẤY PHÁ.
Ngày kia, có một người đến nhà để bán một chiếc xe đạp gắn máy cho con chúng tôi. Sau khi xong việc mua bán, tôi liền chia sẻ về tình yêu thương Chúa Jesus cho người. Người rất chú ý nghe và sau đó người xin tôi cầu nguyện giúp người tin Chúa Jesus.
Qua ngày hôm sau, vừa sáng sớm, người đến nhà chúng tôi, tay xách một giỏ trái cây để biếu. Chúng tôi từ chối không nhận vì việc chúng tôi giúp cho mọi người biết Tin lành để tin Chúa là một việc làm nhưng không; nên không dám nhận tiền hay quà bánh chi hết. Người yêu cầu chúng tôi nhận cho người một lần để người kể chuyện. Sau đó người kể: “Tôi đã bị một con quỉ theo ám ảnh và khuấy phá gần 5 năm, ban đêm là nó hiện ra để khuấy phá, gỏ cửa và ngồi gần đầu giường nói chuyện rù rì, trải qua mấy năm. Tôi phải dọn nhà nhiều lần, thử xem có hết không, nhưng vô hiệu quả, đành chịu đựng số phận, nên ban đêm tôi để đèn thật sáng mà ngủ. Tôi thường đi nhà thờ Công giáo để cầu nguyện vào lúc sáng sớm, mặc dù trời đổ tuyết, tôi cũng cố gắng đến đó cầu nguyện, mong lập công quả để Chúa thương xót đuổi quỉ lánh xa. Nhưng nó vẫn theo tôi. Có lần tôi cũng đã đến Lourde đề cầu nguyện nhưng cũng vô hiệu. (Lourde là một chổ mà người Công giáo cho biết là nơi có xảy ra nhiều phép lạ của bà Mari, nên từ khắp các xứ Âu châu người hay đến đó nguyện cầu). Hôm qua Mục sư đã cầu nguyện cho tôi tin Jesus và về nhà tôi ngủ suốt đêm chẳng còn nghe thấy gì nữa như những đêm trước.”
Thật cảm tạ ơn Chúa rất diệu kỳ! Ngài có thương xót một NẠN NHƠN của “THẾ GIỚI TỐI TĂM”. Và từ ấy đến nay đã hơn 4 năm, người vẫn một lòng tin Chúa và chẳng còn một lần nào bị ma quỉ đến khuấy phá nữa. Cảm tạ ơn điển và quyền năng thật lạ lùng của Chúa!
VÀI LỜI KẾT LUẬN CHO PHẦN NẦY
Đồng bào thân mến! Ước vọng chính của tôi khi được Chúa thúc giục viết ra quyển sách nhỏ nầy, là mong nó được tới tận tay đồng bào là người chưa tin Chúa Jesus, để khi có dịp đọc qua thì được biết ít nhiều về NIỀM TIN mà chúng tôi đặt nơi Chúa Jesus, và hiểu rằng Chúa Jesus là Đấng đã ban ơn phước trên chúng tôi bởi NIỀM TIN ấy.
Dù phải trải qua những lúc gặp khó khăn, hoạn nạn, gia dình bị đau yếu, bịnh tật, có lúc bị bắt bớ hăm dọa… Nhưng trong mọi hoàn cảnh ấy, chúng tôi luôn hướng về Chúa Jesus mà cầu xin, thì được Ngài nhậm lời và đáp ứng sự cầu xin bằng những sự cứu giúp kịp thời và lạ lùng của Ngài. Đúng như lời Kinh thánh đã chép: “Chúa Jesus phán: các ngươi nhơn danh Ta mà cầu xin đều chi mặc dầu, ta sẽ làm cho.” (Giăng 14:13) “Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu ta; họ còn nói Ta đã nghe rồi.” (Êsai 63:24). “Khi ngươi cầu, Ta ứng,” (Êsai 58:9). “Khi dân Ngài bị khốn khó, thì chính Ngài cũng khốn khó và Thiên sứ trước mặt Ngài đã cứu họ rồi.” (Êsai 63:9). “ Đức Chúa Trời ở gần mọi người cầu khẩn Ngài, tức là ở gần mọi người có lòng thành thực cầu khẩn, Ngài sẽ nghe tiếng kêu cầu của họ và giải cứu họ, vì Đức Chúa Trời bảo hộ kẻ yêu mến Ngài.” (Thi thiên 145:18-20).
Vậy, đồng bào muốn được phước đời nầy và đời sau, muốn được cứu rỗi linh hồn, hãy mau mau tin nhận Cứu Chúa Jesus làm Cứu Chúa duy nhất của mình, để tội được tha và linh hồn được cứu. Còn trái lại, không chịu tin Chúa Jesus mà vẫn đi tìm đạo lý nầy, tôn giáo kia; thì không thể nào được cứu như Kinh thánh đã nói: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có Đấng nào khác ban cho loài người, để chúng ta nhờ đó mà được cứu rỗi.” (Sứ đồ 4:12). “Hễ ai tin Chúa Jesus thì được tha tội vì Danh Ngài.” (Công vụ các Sứ-đồ 10:43). “Chỉ nhờ Ngài mà anh em được cứu. Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội theo sự dư dật của ân điển Ngài.” (Êphêsô 1:7). “Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin Lành mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy, cùng đứng vững vàng trong đạo ấy, và nhờ đạo ấy, anh em được cứu rỗi, miễn là anh em giữ lấy y như tôi đã giảng cho; bằng không, thì anh em dầu có tin cũng vô ích.” (I Cô rinh tô 15:1-2). “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Rô ma 8:1).
Riêng về phần tôi là tác giả quyển sách nhỏ nầy, tôi muốn ôn lại những ơn phước của Chúa trong thời quá khứ để rút kinh nghiệm dùng làm bài học cho hiện tại và tương lai, hầu khả dĩ tiếp tục đóng góp ít nhiều cho công việc Chúa trên đường phục vụ Ngài nơi Hải ngoại. Chúng tôi đã quyết định rằng, dầu giàu hay nghèo, dầu đau hay mạnh, dầu may mắn hay không, dầu được quý trọng hay khinh thường, dầu khi giảng Tin lành có nhận được trợ cấp hay không, chúng tôi quyết tâm tiếp tục nhiệm vụ hầu việc Chúa, mong đáp đền ơn muôn một với Chúa Jesus, là Đấng ban ơn xuống phước không kể xiết trên chúng tôi, ấy là lo “rao truyền Tin lành, không phải để đẹp lòng loài người, nhưng để được đẹp lòng Đức Chúa Trời” (I Têsalônica 2:4)
VÀI LỜI TÓM TẮC:
Chúng tôi muốn nói lên:
“ƠN THƯỢNG ĐẾ ĐÃ NHẬN LỜI CẦU NGUYỆN” như đầu đề quyển sách đã nêu ra. Thử hỏi: Nếu không có Đức Chúa Trời yêu thương, nếu không có Đức Chúa Trời phù hộ, nếu không có Đức Chúa Trời dẫn dắt người tin, nếu không có Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện, thì mấy mươi năm qua Đấng nào đã cứu giúp chúng tôi qua những biến cố và hoàn cảnh đã kể qua trong sách nầy? Há không phải Đức Chúa Trời hay sao? Phải! Dù quí vị có tin hay không thì chúng tôi bao giờ cũng chỉ có một câu trả lời là: “Phải!” Chính Ngài là Đức Chúa Trời, Đấng hay ban ơn và nhậm lời cầu nguyện của con cái Ngài. Nhờ NIỀM TIN chắc chắn trong Chúa Jesus nên lòng chúng tôi luôn vui vẻ và thường ngâm lên bài thơ mà tôi đã sáng tác để tạ ơn Thượng đế, là Đấng đã nhậm lời cầu nguyện như dưới đây:
ÂN THƯỢNG ĐẾ
Ân Thượng đế đã nhậm lời cầu nguyện,
Ân ban từ Việt nam đến Cao miên,
Ân cứu sinh thật rộng lớn vô biên,
Nguyện cung hiến tấm lòng thành cho Chúa.
Rời đất Nam Vang lòng vui chan chứa!
Sang xứ người, đất Pháp Chúa dẫn đưa.
Biết bao nhiêu cơn thử thách nắng mưa!
Cùng gia quyến, Tou-lou đồng thẳng tiến.
Sống, thác, đói, no chẳng màng nguy biến!
Quyết dâng đời hầu việc Chúa Jesus.
Phú quí trời Tây, lòng quyết chối từ.
Dâng, Hồn, Linh, Thể lên cho Cha Thánh.
Lòng tự nguyện suốt đời dù ấm lạnh!
Đem đạo Trời gieo rắc khắp nơi nơi,
Giảng Tin lành, truyền Ân Sủng cứu đời,
Chờ hột giống, một ngày kia nẩy nở!
Các bạn đồng lao và anh chị em tín hữu thân mến! Chúng tôi tình nguyện hầu việc Chúa ở nơi phương trời Tây xa xôi và lạnh lẽo nên chức vụ thêm phần khó khăn. Nhưng chúng tôi cố gắng làm một vài công việc cho Chúa trước ngày Chúa chúng ta gần trở lại, mong góp phần với các nhà truyền giáo ở khắp thế gian ít nhiều theo tài hèn sức mọn của chúng tôi hiến lên cho Chúa.
Ước mong quí vị nào có dịp đọc qua quyển sách nhỏ nầy, xin ủng hộ chức vụ của chúng tôi bằng sự cầu nguyện, để Chúa ban ơn nâng đỡ công cuộc truyền giáo Tin lành cho kiều bào tại Pháp được sâu rộng, nhứt là đến những địa phương có đông kiều bào chúng ta trú ngụ. Xin thành thật cám ơn.
Viết xong mùa Nô ên năm 1976, tại Toulouse.
Mục sư Nguyễn Duy Xuân
Tái bút: Hẹn sẽ tiếp tục viết thêm để hoàn thành xong quyển sách nhỏ làm chứng nầy trong những năm còn hầu việc Chúa với hội thánh Toulouse, để kính dâng lên cho Chúa lòng biết ơn và cảm tạ.
THÀNH LẬP HỘI THÁNH TOULOUSE.
Nhớ lại, trong 7 năm hoạt động hầu việc Chúa tại Toulouse (Pháp), thỉnh thoảng, chúng tôi cũng có đi những vòng truyền giáo cho kiều bào tại Luân đôn, Paris, Lyon, Bordeaux, Monperlier và Marseille. v.v… Công việc Chúa tuy không kết quả như sở nguyện, nhưng cũng thâu lượm được ít nhiều thành quả. Thật cảm tạ ơn Chúa.
Đến tháng mười, năm 1976, Cụ Giào sĩ George Irwin đến Toulouse thăm hội thánh và đề nghị chúng tôi hợp tác trở lại với Hội truyền giáo Phúc âm Liên hiệp. Chúng tôi nghĩ rằng: Sau hơn 20 năm hợp tác với Hội truyền giáo Phúc âm thì nay trở lại cũng chẳng có gì trở ngại, nên chúng tôi liền chấp nhận đề nghị ấy.
Nhận thấy hơn 7 năm qua, chúng tôi đã hợp tác với hội thánh Tin lành Tự do (Eglise Évangélique Libre) tại Toulouse; hôm nay chúng tôi trở lại với Hội truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, thì lẽ tự nhiên chúng tôi phải lo lập Hội thánh riêng cho mình.
Sau khi chúng tôi trình bày mục đích quan trọng ấy cho Mục sư P. Tessier, thuộc HTTLTD, thì Mục sư ấy rất vui lòng và tích cực ủng hộ, nên chúng tôi khởi sự nạp đơn tại Tòa Đô chính để xin thành lập Hội thánh. Cám ơn Chúa, sau hơn 4 tháng nạp đơn, đến ngày 31 tháng Giêng năm 1977, tờ Công Báo tại Toulouse đã đăng lên tên Hội mà chúng tôi đã xin: “Mission Évangélique Vietnamienne en France” (Hội Truyền giáo Tin lành Việt nam tại Pháp).
Nhớ lại, mặc dù chưa có giấy phép chính thức, nhưng dưới sự bào trợ của Mục sư P.Tessier, thuộc Hội Thánh Tin lành Tự do, nên chúng tôi cố gắng mướn một cái nhà, sửa lại để làm nhà giảng và trụ sở cho Hội. Mọi việc xong, đến ngày 17-10-76 thì chúng tôi treo bảng lên làm lễ khai hội. Trong ngày khai hội có sự hiện diện của Mục sư P. Tessier, Giáo sĩ George Irwin và Mục sư Nguyễn Văn Bình, cùng khá đông các vị quan khách, nên buổi lễ khai hội được long trọng, đáng qui vinh hiển Danh Chúa.
(* Ghi chú thêm của Mục sư Nguyễn Duy Tân: Hội Thánh Việt Nam tại Toulouse sau đó được giao lại cho Giáo sĩ G. Irwin chăm sóc, và tiếp theo có một số tôi tớ Chúa, trong đó có Mục sư Đặng Đức Tín, tiếp tục quản nhiệm. Tạ ơn Chúa, công việc Chúa vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển tại Toulouse cho đến ngày nay. Những hạt giống do Cố Mục sư Nguyễn Duy Xuân gieo ra tại đó trong 7 năm đã tiếp tục sanh bông trái tốt đẹp cho Nhà Chúa. Thật như Lời Chúa nói: “…Vì biết rằng, công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.” – I Côrinhtô 15:17).
ĐƯỢC KÊU GỌI ĐẶC BIỆT SANG MỸ.
Cám ơn Chúa đã ban cho chúng tôi có cơ hội hợp tác với Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp để truyền giáo được tốt đẹp. Nhưng chúng tôi chưa được thỏa lòng vì thấy kiều bào ở Toulouse rất ít oi và khó tiếp xúc với họ để truyền giáo vì đời sống quá bận rộn của họ. Chúng tôi lại nghe rằng bên Mỹ đồng bào đã qua đó rất đông sau năm 1975 nên ước nguyện xin Chúa mở đường cho qua Mỹ để truyền giáo. Vả lại, công việc Chúa ở Toulouse lúc đó có thể giao lại cho Giáo sĩ George Irwin đảm trách vì cụ giảng được bằng tiếng Việt rất thông thạo.
Chúng tôi đặt vấn đề cầu nguyện để xin qua Mỹ hầu việc Chúa. Nhưng sau khi tìm hiểu, thì được biết là không phải dễ gì cho người Pháp sang được Mỹ quốc. Đầu vậy, chúng tôi cứ cầu nguyện và tin rằng Chúa là Đấng toàn năng làm được mọi sự như Chúa phán cùng Ápraham rằng: “Há có điều chi khó cho Giê hô va Đức Chúa Trời chăng?” (Sáng 18:14)
Đến tháng 7, năm 1977, tôi có cơ hội sang dự Hội đồng Giáo hạt Bắc Mỹ tại Los Angeles. Tôi gặp cụ Mục sư Phạm Văn Năm cho biết cụ sắp đổi đi khỏi Hội Thánh Chicago mà chưa có người thay thế, nếu tôi muốn qua đó hầu việc Chúa, thì gởi đơn cho Ban Chấp Hành Giáo Hạt.
Sau 2 ngày cầu nguyện để biết ý Chúa. Tôi liền viết đơn đưa cho BCH GH để xin hầu việc Chúa tại Mỹ. Ban Chấp hành Giáo hạt sẵn lòng chấp thuận và đồng thời cho tôi chứng thơ để xin chiếu khán qua Mỹ.
Sau khi từ Hội đồng trở về Toulouse, Chúng tôi liền đến nạp đơn tại Tòa Đại sứ Mỹ ở Bordeaux để xin qua Chicago truyền giáo. Cám ơn Chúa, sau 5 tháng thì giấy thông hành và chiếu khán đươc cấp xong. Chúng tôi chuẩn bị và thu xếp hành trang cần yếu, còn nhà cửa thì giao lại cho sở quản lý. Mọi việt xong xuôi, chúng tôi cùng với 2 con nhỏ tuổi nhất đáp xe lửa lên Paris và tạm trú tại nhà người cháu vài ngày để chờ ít hôm lên máy bay đi Chicago. Đột nhiên, có điện thoại từ Mỹ của Mục sư Trương Văn Tốt, Giáo hạt Trưởng, cho hay rằng vì Hội Thánh Chicago và tư thất được Hội truyền Giáo sắp bán lại cho một Hội Thánh khác, nên yêu cầu chúng tôi hoãn lại cuộc hành trình. Chúng tôi hơi bối rối và cảm thấy quá tiếc! Phải chi Mục sư Giáo Hạt Trưởng gọi điện thoại sớm hơn vài ngày là chúng tôi đã ở lại Toulouse hầu việc Chúa. Nhưng thực ra, ý Chúa muốn chúng tôi qua Mỹ hầu việc Chúa, nên hoàn cảnh nào xảy ra đều là đúng thời điểm và theo ý thánh của Ngài. Chúng tôi không còn ngã nào thối lui lại Toulouse nên cứ phó thác mọi việc và tương lai cho Chúa. Chúng tôi đến hãng máy bay điều đình trả thêm tiền để đi đến Los Angeles. Mọi việc thu xếp xong, sáng ngày 5 tháng Tư năm 1978, chúng tôi và 2 con là: Quang và Tuyết Mai lên máy bay qua Los Angeles. Chúng tôi để lại 4 con lớn trên 21 tuổi đang làm việc tại Pháp, vì theo luật không thể đem theo được, nhưng chúng tôi hy vọng khi qua tới Mỹ sẽ tìm cách đoàn tụ gia đình.
Cám ơn Chúa, đến 12 giờ khuya ngày 6 tháng Tư, thì máy bay đáp xuống phi trường quốc tế Los Angeles cách an toàn. Có ông bà Mục sư Trương Văn Tốt, Giáo Hạt Trưởng, ông Mục sư Samuel Ông Hiền, và một số anh em tín hữu ra phi trường đón rước rất nồng hậu và đưa về nhà nghỉ ngơi.
Chúng tôi được Ông Bà Mục sư Hiền cho tạm trú tại nhà Ông Bà được vài tuần, kế đó chúng tôi nhờ ơn Chúa chỉ dẫn mướn được một cái nhà và dọn đến nhà mới. Sau khi trú ngụ tại đây được 4 tháng, chúng tôi được BCH GH đề ngị đến Miami mở Hội Thánh mới, nhưng đến đầu năm 1978 mới có phụ cấp. Chúng tôi nhận thấy hoàn cảnh hiện tại rất khó khăn, ở lại Los Angeles 5 tháng nữa cũng chẳng làm chi! Nên chúng tôi chấp nhận sự sắp đặt của Giáo hạt và đến ngày 9 tháng 8 năm 1978 thì cả gia quyến lấy máy bay sang Miami để nhận chức vụ mới, hầu việc Chúa tự túc. Khi đến Miami, có gia dình Ông Bà Hồ Phiên, một tín hữu trụ cột tại đây ra Phi trường tiếp đón về tạm trú tại nhà ông bà ít ngày. Ông bà tiếp đãi chúng tôi rất nồng hậu, lo cho chỗ nghỉ ngơi và ăn uống. Sau đó vài tuần, Chúa cho mướn được một cái nhà gần đó nên chúng tôi dọn đến nhà mới, và mọi việc cũng tạm yên. Sau gần một tháng hoạt động thăm viếng tín hữu và đồng bào để làm quen với môi trường xã hội mới tại đây, chúng tôi cũng bắt đầu quen biết ít nhiều về tình hình dân trí và dân sinh trong khu vực. Nhận thấy căn nhà đang ở nằm trong xóm không được an ninh, nên chúng tôi ước ao tìm mướn hoặc mua một căn nhà nơi khác được an toàn hơn.
SỰ TIẾP TRỢ ĐÚNG LÚC
Biết rằng: đã trải qua gần 5 tháng bị thất nghiệp tại Mỹ, mà không có nhận được trợ cấp từ một cơ quan nào, số tiền túi chúng tôi mang theo đã chi tiêu gần hết. Hôm nay lại đến Miami hầu việc Chúa tình nguyện, anh em tín hữu thấu hiểu hoàn cảnh nên đề nghị và khuyến khích chúng tôi đi tìm việc làm như các Mục sư khác ở Mỹ đã làm việc trong khi Hội Thánh chưa đủ cung nhu.
Nghĩ rằng: Chúng tôi cả 2 đều đã gần 60 tuổi thì dễ gì kiếm được việc làm. Thực ra, chúng tôi đã hầu việc Chúa hơn 30 năm, chẳng từng làm việc chi khác, nên chỉ muốn có đủ thì giờ dể hầu việc Chúa mà thôi. Nay nghe người đề nghị tìm việc làm, thì lòng chúng tôi hơi chua xót và ngỡ ngàng! Vả lại, đã lãnh nhiệm vụ mở Hội Thánh mới mà lại đi làm việc kiếm ăn, thì công việc Hội Thánh biết ngày nào mới được phát triển? Nếu vậy, tốt hơn ở lại Pháp chớ qua đây làm chi?
Nghĩ vậy, chúng tôi cầu nguyện đặc biệt, xin Chúa cho biết phải xoay sở bằng cách nào trong hoàn cảnh nầy, để có cơ hội phục vụ Chúa và đồng bào. Đồng thời, chúng tôi báo tin cho các con ở bên Pháp biết hoàn cảnh để cầu nguyện.
Sau một tháng cầu nguyện và tiếp tục lấy đức tin di hầu việc Chúa, chúng tôi tiêu phí gần hết, đến đồng dollar cuối cùng. Nhớ lại buổi chiều kia, vợ tôi cho hay trong bốp chỉ còn có 2 đô rưỡi mà thôi. Người đề nghị nên đi mượn một số tiền của tín hữu xài đỡ. Tôi khẳng định “Không.” Đã là Mục sư, không nên mượn tiền của bất cứ ai, nhất là của tín đồ. Vả lại, Mục sư mới mở Hội Thánh, anh em tín hữu chưa biết mình là người như thế nào, nay lại đi mượn tiền, sợ bị họ đánh giá không đúng về mình.
Cám ơn Chúa, thật Chúa là Đức Giê hô Va Di rê (Đức Chúa Trời Sắm sẵn). Sự tiếp trợ Ngài luôn đúng lúc. Chiều hôm sau, là ngày 15 tháng 9, năm 1978, chúng tôi nhận được thơ và ngân phiếu của các con là Duy Tân và Ân Huệ ở Pháp gởi qua trợ giúp, và chúng nó hứa sẽ tiếp tục gởi tiền qua mỗi tháng để chúng tôi có phương tiện hầu việc Chúa. Thật sự tiếp trợ của Chúa rất diệu kỳ và đúng lúc. Hơn thế nữa, các con chúng tôi vì muốn qua Mỹ sinh sống nên tiếp tục chuyễn ngân qua, nhờ đó chúng tôi khả dĩ tạm mượn để mua một căn nhà. Đúng như lời tác giả Thi thiên đã nói: “Sư tử tơ bị thiếu kém, và đói; Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu của tốt gì. Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, Và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy.” (Thi thiên 34:10; 37:5)
MUA CÁI NHÀ CHÚA ĐÃ SẮM SẴN
Chúng tôi bắt đầu cầu nguyện cho kế hoạch mua nhà, dĩ nhiên rất là khó có thể tìm được căn nhà nào giá rẽ vừa với số tiền nhỏ của mình thi mới mua được. Cảm tạ ơn Chúa, sáng ngày 19/9/1978, tôi xách dù ra đi lang thang để tìm nhà. Khi ra sân, tôi còn nói với vợ tôi: “Hôm nay chắc mua được nhà.” Thật đúng như vậy! Ngày hôm đó, tôi đi hết xóm nầy qua xóm khác, lúc đến ngã tư kia, gặp một người Cuba đang sửa xe. Anh ta chào tôi: “Good morning!” Tôi chào lại “Good morning!” Ông ta hỏi tôi: “Đi dạo chơi?” – “Tôi đi kiếm mua nhà” – “Đằng kia có căn nhà bán rẻ lắm! Hãy lại mua đi.” Tôi còn phân vân chưa biết ở đâu? Ông ta lên xe cho máy nổ, và chở tôi đến ngay căn nhà có để bảng bán và bảo tôi vào coi. Tôi không vào nhà mà chi biên số điện thoại của sở địa ốc mà thôi. Khi trở về nhà, tôi liền gọi đến hỏi giá. Họ cho biết căn nhà đó bán 23 ngàn đô. Chúng tôi còn lưỡng lự, thì chiều lại, sở địa ốc kêu cho biết giá đã nói lúc sáng là giá cũ; bây giờ bà chủ nhà muốn bán gấp, chỉ đòi 13.500 đô thôi! Nghe giá quá rẻ, chúng tôi yêu cầu cho vào xem nhà liền.
Đúng giờ hẹn, chúng tôi đến căn nhà và gặp nhân viên địa ốc cùng bà chủ nhà. Sau vài phút nói chuyện để làm quen. Tôi tự giới thiệu là Mục sư ở từ bên Pháp qua đây để hầu việc Chúa tại Hội Thánh Việt nam. Bà chủ nhà có thái độ nhã nhặn và vui vẻ. Chúng tôi yêu cầu bà bớt cho 1.500 đô để trang trải sở phí sang bộ. Bà nhận lời ngay, thế thì giá căn nhà chỉ còn 12.000 đô. Bà còn hứa sẽ cho tất cả đồ đạc trong nhà như: Lò điện, tủ lạnh, bàn ghế, tủ, giường và nhiều đồ lặt vặt; ngoại trừ cây đờn Piano và TV mà đứa cháu đã xin. Được biết Bà đã ở tại căn nhà nầy hơn 30 năm, nên đồ đạc khá đầy đủ.
Sau đó, chúng tôi đến ngay Sở Địa ốc làm giấy tờ mua và trả tiền, cũng yêu cầu làm giấy tờ mau lẹ để sớm dọn đến nhà mới. Cám ơn Chúa, sau 23 ngày, sở địa ốc đến giao cho chúng tôi chìa khóa nhà. Thật là thời gian mau lẹ hiếm có. Chúng tôi liền dọn đến nhà mới, ngày 10 tháng 10 năm 1978. Nhà nầy có 2 phòng ngũ, lại có một phòng họp gia đình (Family room) mới cất thêm khá rộng có cửa như một phòng ngủ nên khá tiện nghi cho gia quyến chúng tôi gồm có 4 người. Hơn nữa, đất phía sau cũng rộng và có các cây ăn trái như: cam, tắc, v.v… Vợ tôi lúc rảnh rỗi có trồng thêm các loại rau thơm cũng tiện lợi và thoải mái! Khi bước chân vô nhà mới chúng tôi tạ ơn Chúa đã dự bị cho căn nhà giá rẻ, vừa túi tiền hiện có, mà lại đầy đủ tiện nghi cho chúng tôi ở để hầu việc Ngài. Đúng như Kinh thánh nói: “Áp-ra-ham gọi chỗ đó là Giê-hô-va Di-rê. Bởi cớ ấy, ngày nay có tục ngữ rằng: Trên núi của Đức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.” (Sáng. 22:14).
GIẤY BẢO LÃNH CON ĐƯỢC CHẤP TUẬN CHỈ TRONG VÒNG 15 PHÚT.
Nhớ lại, lúc còn ở Los Angeles, khoảng tháng 5, năm 1978, sau khi đã nhận được giấy kiều ngụ chính thức, chúng tôi liền đến Sở Di Trú nạp đơn bảo lãnh cho 4 con chúng tôi còn kẹt lại tại Pháp là: Duy Tân, Ân Huệ, Duy Khiêm và Duy Sang để được đoàn tụ gia đình. Nhưng sau 3 tháng nạp đơn, thì Sở Di Trú bác đơn. Nguyên do là tờ hôn thú mà chúng tôi lập tại Bến cát năm 1945 đã bị thất lạc bởi chiến tranh, nên lúc chúng tôi còn ở Nam vang phải lập lại hôn thú mới để đủ điều kiện mang các con qua Pháp. Nhưng đối với Mỹ, hôn thú mới lập lại sau ngày sanh con thì không đúng điều kiện, mặc dầu lúc ở Pháp chúng tôi đã có ra tòa công nhận các con mình cho hợp pháp.
Trước những sự kiện rắc rối của pháp luật Mỹ đầy khó khăn cho chúng tôi, nếu không nói là đầy nước mắt, chúng tôi chỉ còn biết một điều là đem mọi sự ấy trình lên cho Chúa mà thôi. Lúc ấy, Duy Tân, con trai chúng tôi, đã đính hôn với Thanh Thủy, thứ nữ của Bà Sauveur Đoàn Mỹ Chưởng tại San Leandro; còn Ân Huệ, con gái chúng tôi cũng đã hứa gã cho cậu Minh ở El Paso (Texas). Chúng đã viết thơ qua lại và thương nhau. Hôm nay không bảo lãnh được chúng nó qua Mỹ thì cuộc hôn nhơn của chúng nó sẽ như thế nào? Với trách nhiệm của người làm cha mẹ yêu thương con cái, mà phải đương đầu với một thực tại vượt quá khả năng, lòng chúng tôi thật nặng nề và lo lắng. Nhưng cảm tạ ơn Chúa, sau khi chúng tôi đem những khó khăn trình lên cho Chúa, thì Ngài nhắc cho chúng tôi câu Kinh thánh: “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Chúa, vì Ngài hay săn sóc anh em” (I Phiero 4:7), và “Há có điều chi Giê hô va Đức Chúa Trời không làm được chăng?” (Sáng.18:4). Hơn nữa, chúng tôi nhớ lại thế nào Chúa đã lo liệu cho mọi việc được chu toàn khi gặp những thủ tục giấy tờ khó khăn lúc mới tới Nam vang, cũng như giấy bảo lãnh khi đi Pháp, nên chúng tôi lấy lại được lòng bình an và đặt lòng tin cậy hoàn toàn nơi Chúa sắp đặt, cứ ngày đêm cầu nguyện trình lên cho Chúa.
Khi chúng tôi vừa đến Miami độ vài tuần thì gặp một người quen đang học trường luật. Chúng tôi đem mọi việc khó khăn hỏi thăm, người đó hứa sẽ hỏi thăm Ông Thầy. Sau vài ngảy, người trả lời rằng: “Việc đó rất khó vì ít có trường hợp nào như thế có thể xin được nếu đã có một lần bị bác đơn.”
Tuy nghe biết vậy nhưng chúng tôi chưa thất vọng và trình việc ấy ra giữa Hội Thánh để nhờ tín hữu cầu nguyện. Sau vài tuần cầu nguyện đặc biệt, chúng tôi được Chúa thúc giục đến sở di trú tại Miami nạp đơn một lần nữa. Thật, ơn Chúa rất diệu kỳ! Khi nạp đơn, nhân viên thâu đơn hỏi chúng tôi muôn gặp Giám đốc không? Chúng tôi hỏi có thể gặp được không? – “Được! Nếu ông muốn gặp, hãy lên từng 14 thì được giải quyết mau lẹ.”
Chúng tôi hết sức vui mừng vì hy vọng sẽ có cơ hội giải bày những lý lẽ và sự kiện cách trực tiếp với người có khả năng giải quyết. Đoạn, chúng tôi xin lấy hồ sơ trở lại và bước vào thang máy lên tầng số 14, tìm phòng Giám đốc. Người thư ký tiếp kiến và thâu đơn. Chúng tôi ngồi phòng đợi cầu xin Chúa cho hôm nay được ơn trước mặt ông Giám đốc. Cám ơn Chúa, việc diễn ra hết sức lạ lùng dường như trong giấc mơ! Khi chúng tôi được mời vào văn phòng, thì không phải gặp Ông Giám đốc mà một Bà Giám đốc. Bà có dáng người mảnh khảnh, hiền lành, xinh đẹp và duyên dáng, tuổi độ mới gần 30, ăn nói vui vẻ và bặc thiệp. Sau khi xem xét các khai sinh bằng Miên ngữ của các con chúng tôi, bà hỏi thăm người Cao miên đối xử với chúng tôi như thế nào? Và các con ông làm sao thoát khỏi Cao miên? Như cảm thông hoàn cảnh, Bà lấy viết ký tên vào hồ sơ và lấy mẫu giấy in sẵn gạch dưới 3 lần rồi giao cho chúng tôi và nói: “Mọi sự đã xong.” Khi ông về thì gởi giấy nầy báo tin cho các con ông bên Pháp biết nội trong 16 ngày là hồ sơ sẽ tới Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris để các con ông chuẩn bị.
Chúng tôi cầm giấy và tay như hơi run vì sự việc xảy ra rất mau lẹ, quá bất ngờ, không thể đoán trước được. Thật cám ơn Chúa! Khi chúng tôi ra về miệng luôn cám ơn Chúa vì thấy Chúa đã lo liệu sẵn mọi việc, nhưng vì đức tin yếu đuối của mình nên sanh ra lo lắng mà thôi; chớ thật ra mọi sự trong đời sống của con cái Chúa đã nằm trong chương trình và kế hoạch mà Ngài đã sắp đặt.
Về đến nhà, chúng tôi liền gởi giấy bào tin chấp nhận của bà Giám đốc cho các con chúng tôi ở Pháp hay để chúng nó chuẩn bị mọi việc. Chỉ một tháng sau, chúng tôi nhận được thơ các con báo tin rằng: Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris đã kêu lên khám bịnh và thiết lập hồ sơ. Sau một thời gian chờ đợi, mọi thủ tục đã xong xuôi, đến ngày 22/5/1979 ba con chúng tôi là: Tân, Huệ và Sang đáp máy bay qua tới phi trường Miami. Chúng tôi đi đón rước các con mà lòng không xiết kể nỗi vui mừng vì đã hơn một năm xa cách! Thật cám ơn Chúa đã nhậm lời cầu nguyện, lo liệu cho chúng tôi được đoàn tụ gia đình, đúng thời gian để có thể sắp đặt cho các con mọi việc được chu toàn.
Rồi 2 tháng sau, đến ngày 30/06/1979, là ngày hôn phối của Tân với Thủy được cử hành trọng thể tại nhà thờ Neighborhood, Castro Valley (California). Sau đó 2 tháng, ngày 18/8/1979 lễ hôn phối cùa Huệ và Minh cũng được cử hành trọng thể tại nhà thờ Miami (Florida).
Thật, ơn Chúa thật diệu kỳ, vượt quá sự cầu xin hoặc suy tưởng của chúng tôi, như Đức Chúa Jesus đã phán: “Các ngươi nhơn danh Ta mà cầu xin đều chi mặc dầu; Ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh. Nếu các ngươi nhơn danh Ta xin điều chi, Ta sẽ làm cho” (Giăng 14:13-14). Halelugia. Cám ơn Chúa.
THĂM VIẾNG VÀ LÀM CHỨNG 2 NĂM MỚI GIÚP ĐƯỢC MỘT GIA ĐÌNH PHẬT TỬ TIN CHÚA
Đành rằng, chúng tôi đã hầu việc Chúa hơn 30 năm, nay dù chúng tôi có dẫn được vài người tin Chúa, cũng chẳng có gì đáng phải nói. Nhưng đều đáng ghi nhận tại đây là vì thấy ơn Chúa cho chúng tôi quá diệu kỳ! Vì tình thương của Chúa thật là cao, sâu, rộng lớn. Gia đình Phật tử nầy là Ông bà Bùi Hữu Duệ, người Huế, từng thuộc hàng công chức cao cấp. (Nếu đúng như lời Ông Giáo sĩ Thomas Stebbins đã nói: “Người Huế khó tin Chúa lắm” thì cũng có thể rất đúng!)
Chúng tôi biết Ông Bà là những người Phật tử sùng đạo, vì trong nhà có bàn thờ và trên bàn thờ có tượng Phật đúc khá lớn, hoa quả hiến dâng và nhan đèn cúng kiến suốt ngày. Nhà ông bà ở cũng hơi khá xa nhà chúng tôi độ chừng 15 miles, nhưng vì tình thương của Chúa thúc giục nên thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm và làm chứng về tình yêu lớn lao của Ngài cho ông bà. Mặc dầu là nhà Phật tử, nhưng ông bà lại rất chú tâm nghe đạo Chúa. Đôi khi đến ngày lễ, chúng tôi mời ông bà đến nhà thờ, ông bà cũng nhận lời mời đến nhóm họp. Sự giao hảo giữa ông bà và chúng tôi được diễn tiến tốt đẹp, nên chúng tôi được dạn dĩ cố gắng đến thăm và tiếp tục làm chứng thêm về Chúa cho ông bà thường xuyên hơn trước.
Sự việc như vậy kéo dài hơn 2 năm thì trong một đêm kia, sau khi đã làm chứng về Chúa cho ông bà, tôi nhận thấy ông bà có lòng sẵn sàng nên chúng tôi liền thúc giục ông bà hãy quyết định tin nhận Chúa. Ông Bà lại được ơn Thánh Linh soi sáng, hiểu được tình yêu của Chúa nên bằng lòng tin Chúa Jesus làm Cứu Chúa của mình. Sau khi chúng tôi nhơn Danh Đức Chúa Jesus cầu nguyện và chỉ dạy ông bà cách cầu nguyện cùng Chúa, Ông Bà liền được đổi mới, vui vẻ và dạn dĩ kêu điện thoại trong đêm đó báo tin cho bạn bè biết rằng mình đã tin Chúa và tượng Phật đã trả lại cho Chùa. Thật như lời Kinh thánh nói: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người được dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (I Côrinhtô 5:17)
Sau khi tin Chúa, mặc dầu Ông Duệ có bịnh tim khá nặng thường hay mệt mỏi và đôi khi bị té xỉu, nhưng Ông Bà sốt sắng, vui vẻ nhóm họp thờ phượng Chúa tại nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật, ít khi nào vắng mặt. Và những đêm cầu nguyện tuần hoàn tối thứ Sáu, trong mỗi khu vực thành phố có nhà tín hữu, Ông Bà cũng luôn đến nhóm đều đặn với anh em. Hơn thế nữa, Ông Bà ham thích đọc Kinh thánh đến nổi bạn bè và người quen biết đều lấy làm ngạc nhiên! Rồi, sau đó vài ba tháng, ông bà biết cầu nguyện trôi chảy như người đã tin Chúa lâu năm, khiến cho mỗi tín hữu lấy làm lạ về Ông Bà và ngợi khen Chúa.
Hơn thế nữa, Ông Bà Duệ còn sốt sắng đem các con trở lại tin Chúa bằng cách mời chúng tôi đến nhà làm chứng cho họ và chừng 3 tháng sau là trong gia quyến gồm có: Con gái, rể và các cháu chừng 10 người trở lại tin Chúa. Sau đó, cả thảy đều chịu lễ Báp têm và sốt sắng hầu việc Chúa.
Thật ơn Chúa thật diệu kỳ và quyền năng Chúa rất lớn lao, đã thay đổi được lòng người. Chúa cũng có chữa bịnh cho tim ông được khỏe mạnh. Từ khi tin Chúa đến nay đã gần một năm, bệnh tim của ông không còn tái phát. Halelugia! Cám ơn Chúa.
HẦU VIỆC CHÚA TẠI SANJOSE CÁCH BẤT NGỜ.
Chúng tôi hầu việc Chúa tại Hội Thánh Miami gần 3 năm. Chúng tôi tuy đã có tuổi, nhưng lại hoạt động trong một môi trường quá rộng lớn. Nếu chỉ hoạt động tại thành phố Miami mà thôi thì cũng quá lớn rộng, vì thành phố Miami cũng có cái tên là Great Miami (Miami vĩ đại). Nhưng vì sự nhu cầu thăm viếng tín hữu và đồng bào nên chúng tôi phải hoạt động xuyên qua các thành phố lân cận như: Hileah, Hollywood, Fort Lauderdale cho đến vùng South Bay, rộng hơn cả trăm cây số. Công việc tuy không kết quả như ý muốn nhưng cũng gặt hái được một số kết quả đáng kể. Cảm tạ ơn Chúa.
Nhận thấy ở đây thăm được một người Việt cũng phải đi quá xa mới tiếp xúc được với họ, và nghe nói rằng ở tiểu bang California, đồng bào qui tụ đến nhiều vùng để sinh sống đông đúc, nên chúng tôi ước nguyện xin Chúa cho có thể đổi về Cali để có dịp làm chứng về Chúa cho đồng bào đang hư mất
Nghĩ như vậy, chúng tôi bèn đặt sự cầu nguyện trình lên cho Chúa. Sau thời gian cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, chúng tôi liền viết đơn cho BCH GH để xin dời đổi trong khóa 1981. Trong khi chờ đợi, chúng tôi tự thu xếp việc gia đình; còn việc Hội Thánh, chúng tôi xin tín hữu đề cử ra một Quyền Chủ tọa, tạm hướng dẫn Hội Thánh trong khi chờ sự sắp đặt của Giáo hạt.
Sau khi Ông Nguyễn Thạch Kính đắc cử Quyền Chủ tọa, chúng tôi bàn giao việc Hội Thánh lại cho Ông. Đoạn, chúng tôi chuẩn bị hành trình xa xôi để đến Cali, đường dài hơn 3.500 dậm. Mặc dầu lúc bấy giờ chúng tôi chưa nhận được văn thơ chính thức nào của Giáo hạt, chỉ có nói chuyện qua điện thoại vài lần với Mục sư Giáo hạt Trưởng, chúng tôi đã dự định sáng ngày 22/8/1981 thì sẽ khởi hành bằng 3 chiếc xe nhà (gồm 1 xe van và 2 xe nhỏ).
Thì bất ngờ, trưa ngày 18/8/1981, chúng tôi nhận được thơ của Ban Chấp Hành Hội Thánh San Jose thay mặt cho Hội Thánh mời chúng tôi đến hầu việc Chúa với Hội Thánh. Sau một vài ngày cầu nguyện để biết ý Chúa, chúng tôi liền trả lời chính thức với Hội Thánh San Jose rằng: “Chúng tôi sẵn sàng đến hầu việc Chúa với Hội Thánh, và theo dự định sẽ đến nhóm thờ phượng Chúa với Hội Thánh trong buổi nhóm Chúa nhật đầu tiên vào ngày 3/9/1981.
THOÁT HỐ SÂU NHỜ XE ĐÂM ĐẦU XUỐNG HỐ CẠN
Chúng tôi ra đi đúng như chương trình đã định, nên sáng ngày 22/8/1981, lúc 5 giờ sáng thì 3 xe chúng tôi bắt đầu di chuyển trực chỉ về hướng Bắc. Chiếc xe Van của chúng tôi đã chở đồ nặng, lại còn kéo theo chiếc xe Pinto nhỏ phía sau, và còn chở thêm 5 người lớn và 2 trẻ em nửa! Vì lúc ra đi có một gia quyến con cái Chúa là Ông bà Bác sĩ Nguyễn Văn Tấn xin quá giang qua Houston để tìm việc làm. Thông cảm cho hoàn cảnh của con cái Chúa vừa mới tới đất Mỹ, nên chúng tôi vui lòng cho đi với chúng tôi trên xe Van, mặc dầu xe rất chật và chở đồ nặng.
Đoàn xe lăn bánh gần suốt buổi sáng được an toàn thì thình lình có người đề nghị ghé Rest Area (chổ có phòng vệ sinh). “Rest Area kìa!” Tôi quẹo xe vào theo bảng chỉ dẫn. Rest Area nầy rất kỳ lạ, thường thường thì Rest Area nằm gần bên lộ. Còn chổ nầy thì lại phải leo lên dốc rồi lại chạy xuống mà chưa thấy Rest Area ở đâu? Rồi xe chạy lên dốc lần nữa, tôi chạy hơi mau, thình lình thấy cua quẹo hơi gắt, tôi đạp thắng, xe bị trợt bánh trước quá mạnh! Tiếng xe trợt từ ngoài đường tạt vô phía lề bên trái, nghe ào ào và răn rắc, xe lắc lư, tưng lên sụp xuống trên bờ lề cách khủng khiếp, và cuối cùng đâm xuống một hố cạn bên đường và sẵn trớn còn leo lên đồi, đầu xe ngóc lên bên sườn đồi.
Sau khi trải qua những giây phút khủng khiếp, đã lấy lại bình tĩnh, chúng tôi kiểm lại mọi người trên xe, không thấy ai bị thương tích chi nặng, chỉ trầy một vài chổ không đáng kể. Ai nấy đều cảm tạ ơn Chúa có gìn giữ mỗi người được an toàn. Coi lại xe thì cũng chẳng thấy hư hại chi; ngoại trừ bánh xe sau hơi xẹp và vành xe hơi méo. Nghĩ lại tôi biết rằng Chúa đã chọn chỗ nầy để dạy tôi một bài học kinh nghiệm lái xe để sau đó sẽ lái cẩn thận hơn, vì đường còn quá xa và đầy nguy hiểm, còn nhiều đồi núi cao hơn 5000 feet phải đi qua. Nên tôi cảm biết Chúa cho phép xe bị trợt tại đây là chổ đường nhựa bóng láng và lúc sáng sớm đường còn bị sương ướt nên bị trợt khi xuống dốc.
Chúng tôi mất vài giờ mệt nhọc tháo gở xe Pinto và thay bánh. Lúc xong việc, chúng tôi nhìn phía trước chừng vài chục thước, thấy có một cây cầu ngắn, hai bên là hố sâu, đá lởm chởm thấy rợn người; nếu rủi xe bị đâm dầu xuống đó, chắc là không ai được an toàn tánh mạng; và hai chiếc xe cũng bị hủy bỏ hoàn toàn. Thật cảm tạ ơn Chúa đã ban đạo binh Thiên sứ của Ngài để bảo vệ chúng tôi được an toàn, và xe cộ cũng chẳng hư hao nên có thể tiếp tục cuộc hành trình. Cảm tạ ơn Chúa. Đã qua được cơn nguy hiểm tôi học được bài học phải lái xe cẩn thận hơn, nên đoàn xe từ đây bắt đầu đi chậm lại và tôi phải lái xe Van suốt đoạn đường còn lại mấy ngàn miles nữa; chớ không dám thay phiên lái xe như đã định trước, vì tôi nghĩ rằng: Tôi đã học được một bài học, còn con tôi thì chưa. Nếu vì một chút lơ đểnh là rủi ro nguy hiểm!
Cám ơn Chúa, đoàn xe đến Houston (Texas) được an toàn. Chúng tôi nghỉ đêm tại nhà ông bà Mục sư Nguyễn Hữu Ninh. Ông bà Bác sĩ Tấn mang đồ xuống xe; xe nhẹ đi phần nào. Đoạn, chúng tôi tiếp tục đến El Paso, thăm con gái Ân Huệ và rể là Nguyễn Tấn Minh. Đã xa cách gần 2 năm, nay gặp lại con lòng hết sức vui mừng! Chúng tôi ở lại vài ngày với con, kế đó, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình thẳng đến Los Angeles, rồi cuối cùng, đến ngày 2/9/1981 thì tới San Jose. Chúng tôi tạm trú vài ngày nơi nhà của ông bà Thủ quỹ Hội Thánh, ông bà ân cần tiếp đãi chúng tôi nồng hậu, lo chỗ nghỉ ngơi tiện nghi và ăn uống.
Sau vài ngày nghỉ ngơi, chúng tôi cảm thấy khỏe trờ lại. Kế đó ông Thư ký Hội Thánh đến thăm chúng tôi và mua báo để giúp tìm mướn nhà. Cám ơn Chúa, Ngài đã dự bị sẵn một cái nhà 3 phòng tại số 1034 Spencer Ave, San Jose. Chúng tôi đến gặp chủ nhà xin mướn. Ông rất vui vẻ nhận lời và nói: “Nhiều người hỏi mướn mà tôi chưa cho; nay để dành cho ông đó!” Sau nữa tiếng đồng hồ thì làm xong giao kèo. Chiều lại, chúng tôi dọn đến nhà mới ở được bình an và thoải mái!
Biết rằng: Nhà nầy ở gần trung tâm thành phố, nơi rất tiện lợi, để chúng tôi đi thăm tín hữu và đồng bào trong 7 thành phố: San Jose, Santa Clara, Sunyvale, Mountain View, Milpitas, Los Altos và Los Gatos. Thật cảm tạ ơn Chúa đã dự bị cho căn nhà rất thuận tiện và lại chỗ có an ninh. Halelugia! Ngợi khen Chúa.
Thỉnh thoảng, chúng tôi ngồi ngẫm nghĩ lại cuộc hành trình đã qua, càng thêm nức lòng ngợi khen Chúa về sự dẫn dắt và bảo hộ của Ngài rất diệu kỳ như Kinh thánh đã nói: “Nầy, Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, Ta sẽ theo gìn giữ đó; vì Ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi Ta làm xong những đều Ta đã hứa cùng ngươi.” (Sáng 38:15)
BA THÁNG TRUYỀN GIÁO TẠI SAN JOSE BẰNG BA NĂM Ở MIAMI
Nhớ lại lúc còn ở Miami, tôi cầu xin Chúa cho tôi khi về California nếu đẹp ý Chúa, thì còn 5 năm hầu việc Chúa trước khi tôi về hưu, xin Chúa cho chúng tôi dẫn đưa được nhiều linh hồn về với Chúa.
Cám ơn Chúa, sau khi nhận lãnh nhiệm vụ tại San Jose ngày 3 tháng 9, 1981, chúng tôi dùng vài tuần lo những việc cần thiết trong gia đình, đoạn, chúng tôi khởi sự thăm viếng tín hữu và đồng bào. Cám ơn Chúa, ơn Chúa rất diệu kỳ! Trong 3 tháng, chúng tôi lao mình vào việc đi truyền giáo suốt ngày đêm để làm quen với tín hữu và đồng bào. Kết quả dường như vượt quá trí tưởng tượng của chúng tôi: Có 75 người tin nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa riêng của mình. Trong số đó, có một số người thỉnh thoảng có đến nhóm lại thờ phượng Chúa, còn một số khác chúng tôi phải thường xuyên thăm viếng để giúp đỡ họ.
Thật ơn Chúa rất diệu kỳ! Nếu so sánh 3 tháng truyền giáo tại San Jose thì kết quả bằng 3 năm làm việc tại Miami. Halelugia! Ngợi khen ơn Chúa! Nhưng ma quỉ cũng ganh ghét nổi lên gầm thét dữ dội để làm cho chúng tôi ngã lòng đừng đi làm chứng đạo nữa.
Nhưng nhờ ơn Chúa, chúng tôi thắng được lời gièm pha, và cứ giữ vững việc truyền giáo cho đồng bào. Cảm tạ ơn Chúa!
Viết xong mùa Nô ên năm 1981 tại San Jose
Mục sư Nguyễn Duy Xuân
Tái bút: Hẹn sẽ tiếp tục viết thêm để hoàn thành xong quyển sách nhỏ làm chứng nầy, sau những năm hầu việc Chúa với Hội Thánh San Jose, để kính dâng lên cho Cứu Chúa lòng biết ơn và cảm tạ.
TIỂU SỬ HẦU VIỆC CHÚA CỦA MỤC SƯ VÀ BÀ NGUYỄN DUY XUÂN
Phần 1: Những năm học ở trưởng Kinh thánh Đà Nẵng:
MS Nguyễn Duy Xuân học khóa 1943-44 và khóa 1944-45. Tốt nghiệp 1949-50
Bà Nguyễn Duy Xuân học khóa 1942-43 và khóa 1949-50 cũng ở Đà Nẵng.
Phần 2: Hầu việc Chúa ở Nam phần Việt Nam:
Tại 2 Hội Thánh ở Cần Giuộc và Long Thành: từ tháng 2/1949 – 7/1950.
Tại Hội Thánh Long Thành: 7/1950 – 3/1955.
Tại Hội Thánh Bình Hòa Phước: 4/1955 – 9/1956
Phần 3: Hầu việc Chúa tại Hội Thánh Việt kiều ở Nam vang (Cao miên)
Từ 10/1956 – 8/1970.
Phần 4: hầu việc Chúa ở Toulouse (Pháp Quốc)
Tại Hội Thánh Tin lành Tự do (Eglise Evangélique Libre) từ 8/1970 – 8/1972.
Mở Hội Thánh Việt kiều tại Toulouse: từ 8/1972 – 1978
Phần 5: Hầu việc Chúa ở Mỹ Quốc.
Mở Hội Thánh mới ở Miami (Florida): Ngày 9/8/1978 – 8/1981.
Hầu việc Chúa tại Hội Thánh San Jose: 8/1981- 11/1983.
Mở Hội Thánh mới Moorpark, San Jose, ngày 16/10/83.
Đến nay, ngày 2/tháng 3/1985 (Ngày viết tiểu sử nầy), chúng tôi vẫn ước ao tiếp tục hầu việc Chúa cho đến trọn đời nếu Chúa cho phép.
Xin quý bạn đồng lao và tín hữu vui lòng cầu nguyện cho chức vụ của chúng tôi, để được Chúa sắp đặt theo ý Ngài. Cám ơn.
Mục sư và Bà Nguyễn Duy Xuân
HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM MOORPARK (SAN JOSE) CALIFORNIA.
Hội Thánh Tin lành Moorpark* được thành lập trong một hoàn cảnh cũng khá đặc biệt! Vì trước khi tôi (Mục sư Nguyễn Duy Xuân) mãn nhiệm kỳ tại Hội Thánh San Jose vào tháng 11/1983 thì một số tín hữu có cảm tình đề nghị xin tôi đứng ra thành lập Hội Thánh mới, để anh chị em có cơ hội hợp tác hầu việc Chúa. Hơn nữa, vì đồng bào đã định cư tại San Jose quá đông nên rất cần có thêm Hội Thánh mới để Truyền giáo.
Vì lý do ấy, nên ngày 1/tháng 10/1983, chúng tôi nhờ ơn Chúa chỉ dẫn tìm được nhà thờ tại số 1710, Moorpark Ave. San Jose (cách nhà thờ San Jose độ 3 miles). Nhà thờ nầy khá đẹp và rộng lớn, có thể chứa được hơn 400 người và vị trí rất lý tưởng vì gần bên trường Đại học Cộng đồng.
Cảm tạ ơn Chúa, mọi kế hoạch được diễn tiến tốt đẹp, nên đến ngày 16/10/83 thì làm lễ khai hội. Hiện diện trong buổi lễ có Mục sư Nguyễn Hữu Tươi, đại diện cho Giáo hạt và hơn 140 tín hữu trong Hội Thánh San Jose đến tham dự. Sau đó, có chừng 70 tín hữu xin gia nhập Hội Thánh Moorpark và thường xuyên nhóm lại (trong số nầy hơn 2 phần 3 là thanh niên).
Rồi đến nay, ngày 1/tháng 3/1985, sau hơn 1 năm, thì số tín hữu mới tăng lên lần lần hơn 200 người. Trung bình nhóm mỗi tuần độ 100 người lớn nhỏ.
Về phần tài chánh của Hội Thánh trong năm 1984 như sau: Ngân quỹ tự trị thu được 75.702 đô, quỹ bất thường thu được hơn 300 đô.
Hội Thánh phát triển một phần nhờ có 3 lần giảng bồi linh trong năm 1984.Ngoài ra, Hội Thánh cũng còn tổ chức thêm được các buổi giảng đặc biệt như: Tết Việt nam, Phục sinh, lễ Hiền phụ, Hiền mẫu, lễ Tạ ơn, Giáng Sinh, v.v…
Lại nữa, Hội Thánh cũng đã tổ chức được 3 lớp học Thánh kinh tư gia, đặt được máy Điện thoại Phúc âm, phát hành mỗi tháng độ 2.000 tờ “Tin mừng” để biếu không cho đồng bào trong vùng.
Mặc dù là Hội Thánh mới, nhưng Hội Thánh cũng đã tổ chức đầy đủ các ban nghành như: Ban chấp hành, Ban Thanh niên, Ban Cơ đốc Giáo dục, Ban Chứng đạo, Ban Nam giới, Ban Nữ giới, Ban Âm nhạc, Ban hát thờ phượng, Ban Tiếp tân, và sau hết là Ban Ẩm thực (Ban nầy hầu như đã cung cấp đồ ăn cho tín hữu trong mỗi chiều Chúa nhật, suốt năm 1984).
Xin quý tôi tớ Chúa và tín hữu vui lòng nhớ đến Hội Thánh Moorpark và chức vụ chúng tôi mà cầu nguyện nhiều hơn cho, để trong trương lai được phát triển thêm nữa, hầu đem sự vinh hiển về cho Cứu Chúa Jesus. Xin thành thật cám ơn.
Mục sư Nguyễn Duy Xuân
* Lời ghi chú thêm của Mục sư Nguyễn Duy Tân: Hội Thánh Tin Lành Moorpark sau đó được dời đến một nơi khác ở địa điểm 1980 đường Hamilton, cũng ở San Jose nên Hội thánh được đổi tên là Hội Thánh San Jose 2. Cố Mục sư Nguyễn Duy Xuân đã tiếp tục hầu việc Chúa và gầy dựng Hội Thánh cho đến lúc qua đời. Chúa tiếp tục ban ơn nên hội thánh cứ phát triển tốt đẹp. Vào khoảng tháng 3 năm 1987, Mục sư vẫn đang hầu việc Chúa cách đắc lực như thường lệ, chỉ cảm thấy hơi bị hụt hơi khi bồng ẵm và chơi với đứa cháu ngoại nên đến gặp Bác sĩ. Sau khi xét nghiệm và chụp hình MRI, Bác sĩ cho biết là Mục sư đã bị chứng ung thư nội tạng vào thời kỳ cuối, đã lan ra từ bao tử đến gan và ruột, không có cách nào để chữa trị và chỉ có thể sống được nhiều lắm là 3 tháng nữa.
Điều đáng tạ ơn Chúa, là Mục sư không cảm thấy một chút nào đau đớn, cũng vì vậy mà khi phát hiện thì đã quá trể. Các bác sĩ dùng tay ấn vào bụng mà không có chổ nào Mục sư cảm thấy đau. Bác sĩ nói thật là một phép lạ, chưa thấy ai bị ung thư nặng như vậy mà không biết đau đớn! Khi nằm bệnh viện, Mục sư có nói với chúng tôi rằng: “Xin cầu nguyện nếu đẹp ý Chúa thì cho Ba được lành bệnh, nếu không thì cho ba qua đời vào Chúa nhật Phục sinh.” Quả thật như lòng ao ước, chỉ 3 tuần sau, Mục sư đã nhẹ nhàng qua đời vào trưa Chúa nhật Phục sinh 19 tháng Tư năm 1987.
Sau khi Mục sư qua đời Hội thánh San Jose 2 vẫn tiếp tục được Chúa ban phước và phát triển nhờ quý Mục sư Trương Văn Sáng, Trương Văn Được, Phạm Hùng,… chăm sóc. Gần đây, Hội thánh đã dời về thành phố Milpitas vì đã mua được một cơ sở rộng rãi và tốt đẹp và tiếp tục được Chúa ban phước, nên đã trở thành hội thánh lớn nhất trong Vùng Bắc Cali. Rất nhiều tín hữu được chính Ông bà Mục sư giúp tin nhận Chúa vẫn còn sinh hoạt đắc lực với Hội thánh.
CHƯƠNG TRÌNH
LỄ AN TÁNG
Cố Mục sư Nguyễn Duy Xuân
Tại Santa Clara Funeral Home
1000 Scott Blvd, Santa Clara, California
11 giờ ngày 21-4-87
Chủ lễ: Mục sư Trương Văn Sáng
TẠI PHÒNG HÀNH LỄ
- NHẠC MỞ ĐẦU
- THÁNH CA “Miền Vinh Hiển” Hội chúng
- CẦU NGUYỆN KHAI LỄ MS. Samuel Ông Hiền
- ĐỌC KINH THÁNH (Thi 90:1; I co6r 15:20-26,50-57)
- BIỆT CA “Kiếp Cỏ Hoa”
- TIỂU SỬ CỐ MỤC SƯ NGUYỄN DUY XUÂN
- LỜI AN ỦI VÀ KHÍCH LỆ, MS. Trương Văn Sáng
- CẦU NGUYỆN
- BIỆT CA “Giờ Đây Tôi Quyết Đi…” (Bài Cố Mục Sư Ưa Thích)
- LỜI PHÂN ƯU Đại Diện Các HT
- THƯ TỪ, ĐIỆN TÍN, PHÂN ƯU Thư Ký HT
- LỜI CÁM ƠN Đại Diện Tang Gia
- CẦU NGUYỆN CHUNG Hội Chúng
- CHÚC PHƯỚC
NGOÀI MỘ ĐỊA
- Thánh Ca “Thiên Cung, Chính Quê Hương” Hội Chúng
- NGHI THỨC LỄ Mục sư Chủ Lễ
- CẦU NGUYỆN
- CHÚC PHƯỚC
LỄ CHUNG
———————————
TIỂU SỬ
MỤC SƯ NGUYỄN DUY XUÂN (1921-1987)
Mục sư NGUYỄN DUY XUÂN được sanh ra vào ngày 6 tháng 6, 1921 tại làng Mỹ Ngải, quận Cao Lãnh, Nam phần Việt Nam, là con của ông Nguyễn Văn Bộ và bà Hồ Thị Nguyệt, trong một gia đình điền chủ.
Được lớn lên trong một gia đình đạo Phật với nhiều ảnh hưởng của Nho giáo ông học được lòng kính sợ Đức Chúa Trời từ nơi sự dạy dổ của cha mẹ. Vào năm 12 tuổi ông đã hăng hái theo Chú mình đến nhà thờ Tin lành học Kinh thánh và cầu nguyện. Từ đó đức tin ông tiếp tục lớn lên nhờ thấy Chúa có nhiều lần giải cứu ông khỏi những cơn nguy hiểm.
Năm 17 tuổi cha mẹ ông tin nhận Chúa và ông được thường xuyên đến nhà thờ để thờ phượng Chúa. Lúc được 19 tuổi trong một cơn nguy khốn cùng cực, ông đã hứa nguyện với Chúa rằng nếu Ngài giải cứu khỏi cảnh hoạn nạn thì ông sẽ dâng mình hầu việc Chúa trọn đời. Thật Chúa đã che chở và cho ông thoát nạn rất diệu kỳ. Từ đó ông được đầy ơn Chúa và dạn dĩ làm chứng về Chúa. Ông được bầu làm Trưởng ban thanh niên, giảng viên Trường Chúa nhật và chấp sự Hội Thánh.
Năm 22 tuổi ông gởi đơn xin nhập học tại trường Kinh thánh Đà Nẵng. Chúa đã giúp ông vượt qua rất nhiều khó khăn và cuối cùng ông được nhận vào học niên khóa năm 1943-44. Rồi đến niên khóa 44-45 ông lại gặp nhiều khó khăn khác nữa, nhưng cảm tạ ơn Chúa Ngài đã giải quyết hết thảy theo sự tiếp trợ rất diệu kỳ của Ngài, nên ông lại được ra Đà Nẵng tiếp tục việc học.
Sau khi bãi trường, nhờ Chúa hướng dẫn ông đã lập gia đình với bà và cả 2 đã đồng lòng hiệp ý với nhau lo truyền giảng đạo cứu rổi của Đức Chúa Trời cho đồng bào, dù trải qua nhiều khó khăn vì thời cuộc. Ông đã tự túc hầu việc Chúa tại Bến cát, Thủ đức và Cần giuộc. Năm 1949 ông lại trở vào trường Kinh thánh Đà Nẵng để tiếp tục học và tốt nghiệp vào mùa hè năm 1950.
Từ đó, suốt gần 40 năm, Chúa đã dùng ông trong công trường thuộc linh của Ngài ở nhiều Hội Thánh tại Việt nam, Cao miên, Pháp, Hoa kỳ. Tại Việt nam ông đã hầu việc Chúa ở Long thành (1950-55), Hội Thánh Hòa ninh (1955-56). Sau đó tiếp tục tại Hội Thánh Nam vang, Cam bốt (1956-70). Tiếp đến ông và gia đình sang Pháp và thành lập Hội Thánh Toulouse và hầu việc Chúa tại đó cho đến năm 1978. Cuối cùng, ông đã được Chúa cho phép sang Hoa kỳ và tiếp tục hầu việc Chúa tại Hội Thánh Miami (1978-81) và 2 Hội Thánh ở San Jose (1981-87).
Trên phương diện một tôi tớ Chúa, Mục sư Nguyễn DuyXuân đã nhờ đức tin vượt qua nhiều khó khăn thử thách, tận tụy hầu việc Chúa đến những ngày cuối cùng của đời mình cách trung thành và hăng say, giúp cho đức tin nhiều người được tăng trưởng và nhiều người được cứu rỗi linh hồn.
Nhiều lúc vì yêu thương con cái Chúa, Mục sư đã đạp xe đạp suốt ngày hàng chục cây số để thăm viếng tín đồ. Dù có lúc bụng đói mệt nhòa nhưng ông không dám ở lại dùng cơm tối vì thấy tín đồ quá nghèo cực. Mục sư luôn luôn sẵn sàng đưa đón, thăm viếng, giúp đỡ con cái Chúa bất cứ giờ nào, dù lạnh lẻo hoặc gió mưa.
Trên phương diện là một người cha, Mục sư đã có công dạy dổ con cái theo lẽ thật của Chúa để mỗi người đều được lớn lên và đứng vững trong niềm tin Cơ đốc. Ông đã hy sinh từng manh áo miếng ăn để giúp cho con cái có cơ hội đến trường học hành đổ đạt và nên danh phận với người.
Trên phương diện là chủ gia đình, ông yêu thương đùm bọc và chăm sóc vợ con cách chu đáo khiến cho bầu không khí gia đình luôn luôn ấm cúng và tràn đầy phước hạnh.
Trước sự luyến tiếc của mọi người Mục sư đã được Chúa cho trở về an nghĩ nơi Nước Ngài hôm Chúa Nhật Phục Sinh này 19 tháng 4 năm 1987, lúc 1 giờ trưa. Mục sư được hưởng thọ 66 tuổi với hơn 40 năm tận tụy hầu việc Chúa.
Mục sư đã ra đi trong sự luyến tiếc bùi ngùi của gia đình với muôn vàn thương nhớ.
Mục sư ra đi như một hạt giống phải tan rả đi mới mang lại bao nhiêu bông trái khác.
Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều người đứng lên nối gót theo gương Mục sư trên con đường phục vụ Chúa.
TIỂU SỬ NGẮN – MỤC SƯ NGUYỄN DUY XUÂN
Sanh: năm 1921, Làng Mỹ Ngãi, quận Cao Lãnh, Nam phần Việt Nam
1943-45: Học thần đạo tại trường Kinh thánh Đà Nẵng
1945-49: Truyền giáo tự túc tại các Hội Thánh: Bến cát, Thủ Đức và Cần Giuộc.
1949-50: Học thần đạo tại trường Kinh thánh Đà Nẳng
1950: tốt nghiệp
1950-55: Chủ tọa Hội Thánh Long Thành
1955-56: Chủ Tọa Hội Thánh Hòa Ninh
1956-70: Chủ Tọa Hội Thánh Nam Vang, Cam Bốt.
1970-78: Chủ Tọa Hội Thánh Toulouse, Pháp
1978-81: Chủ Tọa Hội Thánh Miami, Florida, Hoa Kỳ
1981-87: Chủ Tọa Hội Thánh San Jose 1 và San Jose 2
Ngày 19 tháng 4 năm 1987: Về an nghỉ nơi nước Chúa vào Chúa Nhật Phục Sinh, lúc 1 giờ trưa.
Mục sư để lại vợ là Bà Phan Thị Hợi, cùng 6 người con, tất cả đều hầu việc Chúa qua nhiều hình thức và phương tiện khác nhau:
Nguyễn Duy Tân
Nguyễn thị Ân Huệ
Nguyễn Duy Khiêm
Nguyễn Duy Quang
Nguyễn Duy Sang
Nguyễn T. Tuyết Mai
Các cháu:
Andrew Nguyễn và David Nguyễn
Daniel Nguyễn
(3 Cháu trai, con của Khiêm)
Peter Nguyen
Jimmy Phạm
Thơ: CÔNG ƠN THÂN PHỤ
Công cha như núi Thái sơn,
Như trời lồng lộng, như cơn mưa chiều.
Cuộc đời vất vả bao nhiêu,
Chỉ vì yêu mến nâng dìu đàn con.
Ôi tình thân phụ sắc son,
Dù cho sông cạn núi mòn không phai.
Ơn sâu nguyện khắc ghi hoài,
Trọn đời cố gắng để hài lòng cha.
Nhớ khi lầm lỗi được tha
Đôi mắt người thật thiết tha nhân từ
Những khi tánh xấu tật hư,
Cái roi nghiêm khắc chẳng từ lời than.
Vì mong con được khôn ngoan,
Người thường răn dạy muôn ngàn điều hay,
Mỗi khi chân ngã thân trầy,
Tay người chăm sóc, lòng đầy xót thương.
Hy sinh thật quá vô lường,
Trọn đời thiếu thốn nhịn nhường vì con.
Nhịn từng tấm áo miếng ngon,
Mong con ăn học nên khôn với người.
Công cha ôi quá cao vời!
Ơn cha thật chẳng đủ lời nói đâu.
Cầu cho cha được sống lâu,
Cho con cơ hội ơn sâu đáp đền.
Giờ đây ý Chúa được nên,
Cha lìa cõi tạm, về bên kia bờ.
Lòng con se thắt bơ vơ,
Còn đâu cơ hội phụng thờ cha yêu.
Lòng xin khấn hứa một điều,
Gắng lo việc Chúa sớm chiều khôn nguôi.
Mục sư Bác sĩ Nguyễn Duy Tân